https://archive.org/details/qua-n-sa-t-tha-n-va-ta-m
🔶 Tâm
quan sát tất cả hành động của thân.
Luôn quan sát sáu cửa giác quan
Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi mùi, thân cảm nhận, lưỡi biết
vị, tâm nhận biết.
😻Thanh
lọc cảm xúc giữ lại những cảm xúc tốt cho ra đi cảm xúc không tốt sau đó cho đi
tất cả tốt xấu và giữ thân tâm quân bình.
🎁 Còn
nếu chúng ta thong thả, tuần tự, cân bằng giữa sự thoải mái thư giãn và sự
chánh niệm, thỉnh thoảng phóng tâm, ta lại thong thả quan sát nó vận hành như
thế nào? cứ như vậy nhẹ nhàng thoải mái chúng ta sẽ hiểu đối tượng một cách thấu
đáo, chỉ có vậy thôi không phải làm gì cả.
🌸 TÂM
QUÁN NIỆM.
1. Nói đến theo dõi tâm thì việc đầu tiên là hay biết đối
tượng.
2. Quan sát đối tượng xem nó vận hành như thế nào.
3. Trạng thái tâm nhìn vấn đề như thế nào, hiện tại tâm
đang quân bình không?
4. Phản ứng của mình ra sao có đúng đắn không. (mong cầu,
ham muốn, bất mãn và không hài lòng)
5. Kiểm tra thái độ của mình, hay biết và hiểu như thế
nào?
Khi mới bắt đầu tập quan sát tâm nên nhớ những bước căn bản
này, sau một thời gian thực tập thuần thục ta có thể nhận ra một chuỗi tâm làm
việc cùng một lúc.
Chúng ta có thể bắt đầu quán sát thực tế cơ bản bằng các đề
mục thiền quán, rồi phát triển sự hiểu biết đó rộng hơn đến với tất cả những gì
chúng ta quan sát. Tâm và thân tùy thuộc vào nhau, nhưng không giống nhau.
BƯỚC MỘT:
Nếu không hiểu được điều cơ bản nầy, ta khó mà có thể tiến
sâu hơn vào tri kiến. Ta sẽ bị chướng ngại bởi “Đúng rồi, nhưng mà…” là những
biểu hiện của lòng nghi hoặc. Chúng ta cần hiểu rằng chính tâm là chủ, tâm sai
khiến thân. Ngay chính như hơi thở, là điều thiết yếu cho sự sống, cũng có thể
bị tâm điều khiển. Ta có thể bảo hơi thở ngưng lại trong giây lát, bảo nó hít
sâu vào, bảo nó chậm lại. Dầu hít thở là hành động tự nhiên của thân, nó cũng
có thể bị tâm sai khiến.
Tri kiến là cái biết qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Khi giải thoát rõ biết giải thoát gọi là giải thoát tri kiến. Tri kiến là trải
nghiệm thực tế và trực tiếp. Khi tri kiến không bị kiến thức hay kinh nghiệm
xen tạp gọi là tri kiến thanh tịnh.
Sau nầy, ta có thể nhận thấy rằng cả thân lẫn tâm đều
không phải là những thực thể rắn chắc, trái lại chúng bao gồm những chuyển động,
do nhiều thứ làm thành. Mỗi tư tưởng là một chuyển động của những thôi thúc
trong tâm. Còn thân dầu có vẻ như rắn chắc; nhưng với chánh niệm ta có thể cảm
thấy đó là những chuyển động tiếp nối.
THÍ DỤ:
Khi ta theo dõi hơi thở sâu lắng, rồi vào định, chúng ta sẽ
nhận thấy ngay mỗi hơi thở cũng chứa đựng sự chuyển động, và không bao giờ là một
hơi thở trọn vẹn. Nó có bắt đầu, ở giữa và ở cuối, và luôn thay đổi. Khi tâm
hành của ta đã tượng hình rõ ràng, ta sẽ thấy có những đặc tính lên xuống, giống
như dòng điện. Chúng ta đạt được sự hiểu biết sâu xa hơn về trạng thái của ngã,
cái trước đây dường như là quá bền vững, cụ thể.
Khi những hạt giống ở trong đất tâm phát hiện ra, đó là những
tâm hành (mental formations). Từ là một tâm hành, Tầm là một tâm hành, Thọ là một
tâm hành, Tưởng là một tâm hành. Hành có nghĩa là phát hiện và lưu hành. Sau
khi phát hiện rồi những tâm hành sẽ biến trở lại thành những hạt giống mới.
Những gì dường như rắn chắc đối với chúng ta thực ra giống
như bụi trong không khí mà ta có thể thấy xuyên qua ánh nắng. Đối với thân cũng
thế. Đã kinh qua, hiểu được thực trạng nầy, giúp chúng ta một bước trên đường
tiến tới tri kiến.
BƯỚC HAI: Nhưng nếu chỉ biết, chỉ tư duy như thế vẫn chưa
đủ. Đó chỉ là bước khởi đầu, phải biến điều đó thành một kinh nghiệm thực sự.
BƯỚC BA: Ngược lại, chỉ có kinh nghiệm thôi, mà không có sự
hiểu biết, cũng không ích lợi gì. Chánh niệm, cảnh giác cũng là một trạng thái
chuyển biến, giống như khi ta nhận biết sự đổi thay, sự thiếu vắng hình tướng
trong các cảm thọ.
Nếu những khía cạnh nầy có thể được nhận thức bằng chính
kinh nghiệm bản thân, chứ không phải qua sách vở, thì ta sẽ nhìn sự vật bằng
con mắt khác. Ta sẽ cảm nhận được một thực tế là chỉ có những hiện tượng vô thường
hiện hữu. Do đó ta sẽ có thể buông được sự chấp chặt, bám víu vào các hiện tượng
nầy. Hình tướng, sự tiếp nối dẫn đến bám víu.
BƯỚC 4: Khi chúng ta có thể chứng nghiệm được điều ngược lại
trong thiền định, là chúng ta mở được đường đến trí tuệ thực sự.
Nhận diện tâm
Ghi nhận từng tâm trạng đang qua lòng mình.
Thí dụ ghi nhận sự có mặt của tâm sân, ngay giây phút ấy
thiền giả nhận biết đầy đủ cảm thọ và cái gì diễn biến trong ta.
Nếu biết đối tượng ngay giây phút đầu tiên thì tâm sân
không thể phát sanh.
Ðối với nhiều người, quán sự tức giận là điểm bắt đầu tốt
vì nó dễ nhận ra và tan biến mau hơn các loại cảm xúc khác.
Khi bạn bắt đầu quán sự tức giận của mình, bạn sẽ khám phá
một điều lý thú.
Bạn sẽ thấy rằng ngay khi bạn vừa biết mình đang tức giận
thì cơn giận tự nó tan biến đi.
Ðiểm quan trọng là bạn phải nhìn nó với tâm bình thản,
không có ‘thích’ hay ‘không thích’.
Khi bạn càng có khả năng nhìn cơn tức giận của mình mà
không phê phán thì nó càng dễ tan biến hơn.
Có thể là lúc ban đầu bạn chỉ ghi nhận được cơn tức giận
khi nó gần chấm dứt.
Ðiều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là bạn quyết tâm
chú ý vào sự tức giận của mình.
Dần dần sự quán tâm sẽ trở nên tự nhiên hơn. Không bao
lâu, bạn sẽ thấy rằng, đột nhiên giữa một cơn giận dữ, cơn giận của bạn bỗng
nhiên biến đi mà không báo trước.
Bạn sẽ thấy mình tỉnh giác và không bị cơn giận cột trói nữa.
TRỞ LẠI NHÌN BÊN TRONG:
Khi bạn cố gắng quay sự chú ý vào bên trong là bạn đã thay
đổi tâm trạng của mình.
Trước kia, bạn chỉ nhìn ra bên ngoài. Bây giờ bạn tự đổi mới
và nhìn vào bên trong, một phần thời gian trong ngày.
Sự quán tâm nầy có thể trở thành một thói quen, một trạng
thái mà tâm bạn luôn luôn tự động chú ý tới chính nó.
Lúc ban đầu, có thể là không thường xuyên, nhưng bạn đừng
chán nản. Trải qua thời gian, bạn sẽ ngạc nhiên thấy là mình ý thức về cơn nóng
giận sớm hơn trước nhiều.
Khi nhận thức nầy trở nên mạnh mẽ hơn, nó sẽ lan qua lãnh
vực của những cảm xúc khác. Có thể là bạn thấy mình đang ngắm nhìn sự ham muốn
của mình. Trong sự ngắm nhìn nầy, sự ham muốn sẽ tan đi và bạn chỉ còn lại sự
nhận thức.
Hay bạn có thể quán sự buồn phiền, nó nổi lên và tan đi chậm
hơn các loại cảm xúc khác. Khó quán nhất là sự trầm cảm (depression). Nhưng bạn
vẫn có thể quán nó với sự tỉnh giác mạnh hơn.
Khi bạn tiến bộ dần, bạn sẽ thấy nhận thức của mình ngày
càng nhạy bén. Đồng thời, các cơn tức giận ngắn bớt và ít xảy ra hơn. Khi cường
độ của các cơn giận giảm dần, bạn sẽ thấy là mình ít khi phải vật lộn với cảm
xúc của mình hơn. Cuối cùng, bạn ngạc nhiên nhận ra là trước đây bạn chưa bao
giờ có thể làm bạn với cảm xúc của mình một cách dễ dàng như vậy.
Khi sự tỉnh giác của bạn trở nên mạnh và cảnh-giác hơn,
tâm của bạn sẽ nhận biết hoạt động của chính nó nhiều hơn. Khi sự tỉnh giác được
trọn vẹn và sinh động, bạn sẽ nhận biết được cơn giận ngay khi nó vừa nổi lên,
và ngay khi bạn vừa nhận diện được nó thì nó bắt đầu tan biến.
Bởi vì bạn không còn vật lộn với cảm xúc, bạn có thể tập
nhìn chúng mà không phê phán, bám níu hay vất bỏ. Chúng không còn đe dọa bạn nữa.
Bạn học tập cách nhìn cảm xúc của mình một cách tự nhiên, như là một chứng
nhân. Ngay cả khi bạn đối diện với xung đột và lòng tràn đầy cảm xúc, bạn vẫn
có thể bình thản nhìn chúng. Khi tâm bạn trở nên vững vàng hơn, bạn có thể đối
phó với xung đột mà không mất quân bình cảm xúc.
Khi đã thử quán cơn nóng giận của mình và thấy nó giảm bớt
trong giây lát, nhưng sau đó nó trở lại và trở lại nữa. Tại sao thế?
Trong giai đoạn ban đầu, khi sự tỉnh giác còn yếu và chưa
trọn vẹn, cơn giận có thể tạm biến trong giây lát khi bạn nhìn nó. Nhưng rồi,
tâm bạn trở lại với thói quen nóng giận như cũ. Bởi vì nề nếp cũ còn mạnh và bạn
chưa làm chủ được nghệ thuật sống tỉnh giác. Bạn có thói quen trí-thức-hóa
nguyên nhân của cơn giận – ai lầm lỗi đây, tại sao xung đột leo thang, và vv…
Thực ra, đây chính là tâm của bạn đang trở về với lối mòn phản ứng cũ.
Chính bạn lập lại chu trình tạo ra cơn giận, suy nghĩ về
cơn giận, và phản ứng theo nó. Ở đây bạn có một chu trình ‘nóng giận – trí thức
hóa – phản ứng’ rất tai hại.
Khi ta học cách chú ý đến cơn giận bằng tâm im lặng là nhằm
phá hủy chu trình nóng giận và trí thức hoá nóng giận.
Chỉ có giải pháp hợp lý là thôi trí thức hóa sự xung đột,
và chỉ im lặng nhìn tâm mình trong lúc lộn xộn đó.
Phải dừng sự suy nghĩ trong tình thế đó và không làm gì
khác hơn là quán tâm?
Nếu thấy khó lòng chú tâm trên sự nóng giận.
Nếu như thế, bạn nên tập trung trên những cảm xúc nhẹ hơn
như là ghét bỏ và ưa thích. Chuyện sẽ xảy ra giống như trước. Ngay khi bạn nhận
biết sự ghét bỏ, bạn thấy cường độ của nó giảm đi; và khi sự tỉnh giác của bạn
đủ mạnh, sự ghét bỏ hay ưa thích sẽ tan mất. Dần dần khi bạn tiến bộ hơn và
tăng cường sự tỉnh giác của mình, bạn sẽ thấy mình có khả năng đương đầu với những
loại cảm xúc mạnh hơn như là giận dữ, khao khát và ham muốn.
Trong những tình huống phức tạp cũng vậy. Chúng ta cần hiểu
rất rõ một điểm: phải tỉnh giác và đừng phê phán. Sự tỉnh giác chính nó sẽ tập
cho chúng ta có được một tâm trí đơn giản và trong sạch, không có phê phán và
phân biệt. Giữ tỉnh giác là một hành động siêu thoát – siêu thoát giận dữ, siêu
thoát phê phán. Do đó nếu bạn làm chủ được nghệ thuật tỉnh giác, bạn sẽ không
còn phản ứng với giận dữ hay phê phán, bởi vì sự chú ý chính nó là một hành động
siêu thoát.
Khi thiền giả thuần thục trong pháp hành một đối tượng khởi
lên trong tâm thiền giả nhìn đối tượng qua nhiều góc cạnh khác nhau, khi nó
phát sanh nhận diện nó là như vậy không có buồn, vui, thương, ghét trong đó thì
tâm sẽ an bình.
Hành giả lấy Tâm mà nhìn Như vậy đồng nghĩa với nhận Biết,
quan sát, soi rọi…
Sống trong hiện tại là nhận Biết những gì đang xảy ra
trong Tâm.
Chỉ ghi nhận hay biết cái gì đang xảy ra ngay bây giờ và ở
đây.
Suy nghĩ chỉ là suy nghĩ mà thôi.
Tham, sân chỉ là hiện tượng tự nhiên vì vẫn còn dính mắc
và phiền não.
Bản chất của tâm, tâm chỉ là tâm mà thôi.
Khi quan sát tâm mình, bạn sẽ thấy tâm không bao giờ an
trú trong hiện tại, nó thường vọng tưởng về tương lai, quá khứ, hoặc đang suy
đoán điều gì có thể xảy ra, hay không xảy ra. Hãy nhắm mắt lại và đưa những suy
nghĩ của mình trở về phút hiện tại, suy nghĩ về những điều tốt đẹp ta đang có
ngay lúc này.
TƯ TƯỞNG NÊN TƯ DUY
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều
quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới
khởi lên, ta sẽ khó có thể nào hiểu được lý Vô ngã và thấy được rằng sự suy
nghĩ không phải thật là mình.
Sự ngộ nhận này là nền móng căn bản xây dựng lên cái ngã,
cái tôi của mình: “Tôi” là người đang suy nghĩ. Chánh niệm về tư tưởng có nghĩa
là giản dị biết được tư tưởng khi nó sinh lên, biết được rằng tâm mình đang suy
nghĩ mà không bị dính mắc vào nội dung của chúng. Chúng ta không nên miệt mài
chạy theo sự tưởng tượng, phân tích coi tư tưởng từ đâu đến. Ta chỉ cần ý thức
được rằng trong giây phút này có một tư tưởng đang phát khởi. Bạn có thể niệm
thầm trong đầu “suy nghĩ, suy nghĩ” mỗi khi có một tư tưởng nào phát hiện. Bạn
hãy quán sát chúng mà không phê bình, không phản ứng, không cho rằng sự suy
nghĩ đó chính là mình, là của mình, sự suy nghĩ cũng chính là người suy nghĩ.
Chẳng có ai đứng phía sau chúng hết. Tư tưởng tự nó suy nghĩ. Nó đến mà chẳng cần
một ai mời. Sau một thời gian thực tập thiền quán, bạn sẽ thấy rằng khi chúng
ta không còn bị dính mắc vào sự suy nghĩ, tư tưởng sẽ không có mặt lâu.
Khi bạn ý thức được sự có mặt của một tư tưởng, nó sẽ biến
mất và sự chú ý sẽ trở lại với hơi thở. Bạn cũng có thể đặt tên chính xác hơn
cho những tư tưởng sanh lên, để nhận diện sự khác biệt của chúng, nếu bạn muốn,
thí dụ như “dự định”, “tưởng tượng” hay là “nhớ, nhớ”. Cách này có thể giúp cho
sự chú ý của bạn được sâu sắc hơn. Nhưng nếu bạn chỉ niệm “suy nghĩ, suy nghĩ”
thôi cũng đủ rồi. Điều quan trọng là phải ý thức được tư tưởng khi nó vừa mới
phát lên, chứ không phải vài phút sau đó. Khi bạn có thể nhận diện được sự có mặt
của tư tưởng khi chúng vừa mới sinh lên, chúng sẽ mất đi khả năng chi phối được
bạn.
Bạn đừng bao giờ đối xử với tư tưởng như là một chướng ngại,
kẻ thù của thiền quán. Chúng chỉ là một đối tượng của chánh niệm, một đề mục của
thiền quán. Đừng bao giờ để tâm mình trở thành lười biếng, dễ duôi. Phải biết
tinh tấn duy trì chánh niệm, biết rõ ràng những gì đang xảy ra trong giờ phút
hiện tại.
Khi ngồi thiền, bạn đừng có cố gắng ngăn chặn sự suy nghĩ
của mình. Hãy để tự nó chấm dứt. Nếu có một tư tưởng nào xuất hiện, hãy để nó đến
rồi để nó đi. Chúng chẳng ở lâu đâu. Còn khi bạn dụng công để ngăn chặn nó, có
nghĩa là bạn bị nó làm khó chịu. Đừng bao giờ để chuyện gì làm cho bạn phải bực
mình. Điều mà bạn tưởng rằng đến từ bên ngoài, thật ra chính là những đợt sóng
trong tâm bạn, và nếu bạn không khó chịu vì những đợt sóng, chúng dần dần sẽ trở
nên yên tĩnh hơn… Những cảm xúc đến, tư tưởng, hình ảnh phát lên đều là những đợt
sóng trong tâm. Chẳng có gì là ở ngoài tâm bạn đâu. Nếu bạn để cho tâm bạn được
tự nhiên, nó sẽ trở nên tĩnh lặng. Tâm này ta gọi là Chân tâm. (Chân tâm là gì?
Là cái tâm chân thực, đã cởi bỏ mọi vọng tưởng, phiền não,
phục hồi được bản tính thật có của chúng sinh là thanh tịnh, sáng suốt. Từ trái
nghĩa là vọng tâm.)
Hãy để mọi việc xảy ra một cách tự nhiên. Hãy để những
hình ảnh, tư tưởng, cảm giác sinh ra và diệt đi mà không khó chịu, phản ứng,
phê phán hay ôm giữ. Trở thành một với Chân tâm, quán sát một cách thật cẩn thận
và tinh tế những đợt sóng đến và đi. Thái độ này sẽ đem lại cho tâm ta là một sự
quân bình và tĩnh lặng vô cùng nhanh chóng. Đừng bao giờ xao lãng sự tập trung
của mình. Giữ tâm chánh niệm luôn luôn, từng giây phút một, về mọi chuyện đang
xảy ra, dù nó có là sự phồng xẹp ở bụng, hơi thở ra vào nơi mũi, cảm giác hay
tư tưởng. Lúc nào cũng giữ chánh niệm, tập trung nơi đối tượng với một tâm quân
bình và thoải mái.