Thursday, April 18, 2024

Phép Quán Thân (Thân Hành Niệm) – Kāyagatāsati Sutta, Majjhima Nikāya MN119

 


 

Chú Thích:  Kinh Phép Quán Thân (Thân Hành Niệm) nói đầy đủ về phần Quán Thân trong Kinh Niệm Xứ. Thêm vào đó là bốn cấp Thiền- từ Nhất Thiền đến Tứ Thiền. Trong khi thực tập, hành giả có thể lướt qua phần ví dụ và chỉ chú tâm vào những phần căn bản.
Sau hết, Đức Phật cũng có phần Khuyến Tấn cho người tu tập và Mười Điều Thành Tựu giúp hành giả vượt qua những chướng ngại tai ương trong đời sống thường nhật cho đến có thể đạt đến những phép thần thông này khác. 
Dưới bản kinh này cũng có thêm bài kinh ngắn “Một Pháp/16 phép quán hơi thở”, mà hành giả có thể dễ dàng tập thêm để làm quen với “hơi thở” trước khi bước vào kinh Thân hành Niệm. 


MN119: Kinh Phép Quán Thân (Thân Hành Niệm) –
Kāyagatāsati Sutta

(Phần Kinh thu gọn, hành giả có thể nhớ thuộc lòng để thực tập) 

** Sáu chi phần quán thân 

(1) Chú tâm hít vô chú tâm thở ra.
*Hít vô hơi dài- biết rõ, thở ra hơi dài- biết rõ.
*Hít vô hơi ngắn- biết rõ, thở ra hơi ngắn- biết rõ.
*Toàn thân cảm giác- thực tập hít vô, toàn thân cảm giác- thực tập thở ra.
*Tĩnh lặng thân hành- thực tập hít vô, tĩnh lặng thân hành- thực tập thở ra. 

(2) Quán 4 tư thế
Khi đi chỉ biết đang đi, khi đứng chỉ biết đang đứng, khi ngồi chỉ biết đang ngồi, khi nằm chỉ biết đang nằm.
Hoặc giả khi thân đang hoạt dụng ở tư thế nào thì luôn biết rõ như vậy. 

(3) Biết rõ – Tỉnh giác  
Khi đi tới đi lui- rõ ràng thường biết. Nhìn tới nhìn quanh- rõ ràng thường biết. Co duỗi tay chân – rõ ràng thường biết.
Khoát cà sa, bưng bát, mặc y- rõ ràng thường biết. Ăn, uống, nhai, nếm- rõ ràng thường biết. Đại tiện, tiểu tiện- rõ ràng
thường biết. Đi, đứng, ngồi, ngủ nghỉ, thức giấc, nói chuyện, im lặng- rõ ràng thường biết. 

(4) Thân ô trược  
Xem xét thân này từ đáy chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, như một bọc da, tích chứa đầy những loại vật thể dơ bẩn khác nhau. Nơi thân này là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, cách mô, lá sách, phổi, ruột, màng ruột, dạ dày, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất dầu, nước miếng, nước mũi, dịch khớp xương, nước tiểu (1*)

(5) Thân bốn yếu tố
Qua tư thế hoặc qua sự hoạt dụng của thân, nơi thân đây gồm các yếu
tố: Đất/chất đặc, Nước/chất lỏng, Lửa/chất nóng, Gió/chất hơi. 

(6) Chín giai đọan mục nát của tử thi
* Giai đoạn 1: xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, trương sình, xanh xám, rã thối.
* Giai đoạn 2: bị qụa, diều hâu, kên kên, chim diệc đến rỉa thịt; hay bị chó, cọp, beo, chó rừng và hàng loạt các loài sinh vật khác đến xơi thịt.
* Giai đoạn 3: với bộ xương còn nguyên, dính liền thịt và máu, nối lại với gân.
* Giai đoạn 4: với bộ xương còn nguyên, không còn thịt nhưng còn dính máu, nối lại với gân.
* Giai đoạn 5: với bộ xương còn nguyên, không còn thịt không còn máu, nối lại với gân.
* Giai đoạn 6: với bộ xương không còn dính lại nhau, mà rải rác nơi này nơi khác. Đây là xương tay, xương chân, xương mắt cá, xương ống quyển, xương đùi, xương hông, xương sườn, xương sống, xương vai, xương cổ, xương hàm, răng, xương sọ.
* Giai đoạn 7: chỉ còn là xương đã biến thành màu trắng bạc vỏ ốc.
* Giai đoạn 8: chỉ còn trơ trọi một đống xương tàn sau một năm.
* Giai đoạn 9: chỉ còn là xương rã nát thành bột.
Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. 

** Bốn cấp thiền
* Nhất thiền: Ly dục ly bất thiện pháp (2*), với tầm (3*) (ý nghĩ, tư tưởng) với tứ (suy ngẫm, suy diễn) cùng nguồn hỷ lạc (4*) phát sinh từ sự cách ly, nhập trú Nhất thiền.
* Nhị thiền: Từ bỏ tầm và tứ, với nội tĩnh và nhất tâm, không còn tầm-tứ, với nguồn hỉ lạc khác phát sinh từ thiền định, nhập trú Nhị thiền.
* Tam thiền: Từ bỏ hỉ, sống buông xả, giữ chánh niệm tỉnh giác, nguồn an lạc được cảm thọ qua thân như Thánh nhân tuyên bố: “Sống buông xả- chánh niệm- an lạc”, nhập trú tam thiền.
* Tứ thiền: Từ bỏ lạc- từ bỏ khổ, cùng với sự đoạn diệt những vui buồn từ trước, dứt khổ- dứt lạc, buông xả- chánh niệm- thanh tịnh, trú nhập tứ thiền.
—————————————————————— 

(1*) Thân ô nhiễm hay bất tịnh gồm có 32 món: 20 món đặc và 12 món lỏng, nhưng trong nguyên văn Pāli chỉ có 19 món đặc, nếu muốn người đọc có thể thêm vào như bàng quang, hậu môn, etc…

(2*) Bất thiện pháp có thể hiểu như 5 Chướng ngại (Triền cái) trong phần Quán Pháp – Kinh Tứ Niệm Xứ. Đó là Tham, Sân, Buồn ngủ/Dã dượi, Xao lãng/Hối tiếc, Nghi ngờ. 
(3*) Tầm và Tứ: tầm cũng có thể hiểu là tìm kiếm và tứ là quan sát. Ví như khi tập Nhất thiền, hành giả tìm kiếm (tầm) một đề mục/đối tượng như hơi thở để
quán, rồi chú tâm quan sát (tứ) hơi thở ra/vô một cách liên tục miên mật. 
(4*) Hỷ để chỉ cho sự hoan hỷ thuộc về tâm, Lạc chỉ sự an lạc của thân.

————————————————————————-

(Bản Kinh Chính Văn) 

Tôi (Thị giả Ānanda) nghe như vầy: một thời Đức Phật ngụ tại Savatthi (Xá Vệ) trong Jetavane (rừng Kỳ Đà), nơi khuôn viên cư sĩ Anathapindika (Cấp Cô Độc). Rồi phần đông Tỳ Khưu sau lúc đi khất thực và ăn xong, ngồi tụ tập trong phòng họp và diễn ra sự bàn luận này: thật kỳ diệu chư huynh, thật phi thường chư huynh! Như Đức Phật, bậc tri thức, tri kiến, A la hán và Chánh đẳng Chánh giác đã từng giảng thuyết: “Luyện tập phát triển đầy đủ Thân Hành Thưa Đức Phật, trong khi cuộc bàn luận chưa xong thì Ngài đến đây. 

  • Vậy này chư Tăng, luyện tập phát triển đầy đủ Thân Hành Niệm như thế nào để đạt nhiều qủa lành và thành tựu lớn lao?

(Niệm Hơi Thở Vô Ra) 
– Này chư Tăng, Tỳ khưu tìm đến cụm rừng, đến gốc cây hay phòng nhà trống vắng, ngồi xếp bằng tréo chân, giữ thân ngay thẳng và hướng chánh niệm phía trước mặt.
Như vậy chú tâm hít vô chú tâm thở ra. Hít vô hơi dài- biết rõ, thở ra hơi dài- biết rõ. Hít vô hơi ngắn- biết rõ, thở ra hơi ngắn- biết rõ. Toàn thân cảm giác- thực tập hít vô, toàn thân cảm giác- thực tập thở ra. Tĩnh lặng thân hành- thực tập hít vô, tĩnh lặng thân hành- thực tập thở ra.
Trong khi sống chuyên cần, nổ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. Niệm sẽ đạt nhiều qủa lành và thành tựu lớn lao”.

Trong lúc sự đàm luận giữa chư Tăng chưa xong thì Đức Phật đứng dậy từ nơi tịnh cư vào lúc xế chiều, bước đến phòng họp ngồi vào nơi đã được dọn sẵn. Ngồi xuống, Đức Phật nói với chúng Tăng:

 

  • Này chư Tăng, các thầy đang ngồi đàm luận chuyện gì mà chưa xong như vậy?
  • Thưa Đức Phật, chúng Tăng sau lúc đi khất thực và ăn xong, ngồi tụ tập trong phòng họp và đã diễn ra sự bàn luận này: thật kỳ diệu chư huynh, thật phi thưòng chư huynh; như Đức Phật, bậc tri thức, tri kiến, A la hán và Chánh đẳng Chánh giác đã từng giảng thuyết: “luyện tập phát triển đầy đủ Thân Hành Niệm sẽ đạt nhiều qủa lành và thành tựu lớn lao.” 

(Bốn Tư Thế: Đi Đứng Ngối Nằm)
– Này nữa chư tăng, Tỳ khưu khi đi chỉ biết đang đi, khi đứng chỉ biết đang đứng, khi ngồi chỉ biết đang ngồi, khi nằm chỉ biết đang nằm. Hoặc giả khi thân đang hoạt dụng ở tư thế nào thì luôn biết rõ như vậy.
Trong khi sống chuyên cần, nổ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. 

(Biết Rõ – Tỉnh Giác)  
– Này nữa chư tăng, Tỳ khưu đi tới đi lui- rõ ràng thường biết. Nhìn tới nhìn quanh- rõ ràng thường biết. Co duỗi tay chân – rõ ràng thường biết. Khoát cà sa, bưng bát, mặc y- rõ ràng thường biết. Ăn, uống, nhai, nếm- rõ ràng thường biết. Đại tiện, tiểu tiện- rõ ràng thường biết. Đi, đứng, ngồi, ngủ, thức giấc, nói chuyện, im lặng- rõ ràng thường biết.
Trong khi sống chuyên cần, nổ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. 

(Thân Ô Trược)  
– Này nữa chư tăng, Tỳ khưu xem xét thân này từ đáy chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, như một bọc da, tích chứa đầy những loại vật thể dơ bẩn khác nhau. Nơi thân này là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, cách mô, lá sách, phổi, ruột, màng ruột, dạ dày, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất dầu, nước miếng, nước mũi, dịch khớp xương, nước tiểu.
Này chúng tăng, tỉ dụ như một cái tuí với hai đầu trống, chứa đầy các loại hột khác nhau: lúa đồi, lúa đồng, đậu xanh, đậu thận, mè, gạo trấu. Một người mắt sáng tháo túi này ra để quan sát: đây là lúa đồi, là lúa đồng, là đậu xanh, là đậu thận, là mè, là gạo trấu. Cũng như vậy chúng tăng, Tỳ khưu xem xét thân này từ đáy chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, như một bọc da, tích chứa đầy những loại vật thể dơ bẩn khác nhau. Nơi thân này là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, cách mô, lá sách, phổi, ruột, màng ruột, dạ dày, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất dầu, nước miếng, nước mũi, dịch khớp xương, nước tiểu (1*).
Trong khi sống chuyên cần, nổ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. 

(Thân Bốn Yếu Tố)
– Này nữa chư Tăng, Tỳ khưu xem xét thân này hoặc qua tư thế hoặc qua sự hoạt dụng của các yếu tố. Nơi thân đây là các yếu tố Đất, Nước, Lửa, Gió.
Này chúng tăng, tỉ dụ như có người hàng thịt khéo tay hay người tập sự của ông ta làm thịt một con bò, ngồi tại ngã tư đường phân cắt ra thành những phần nhỏ.
Cũng như vậy chúng Tăng, Tỳ khưu xem xét các yếu tố của thân này hoặc qua tư thế hoặc qua sự hoạt dụng. Nơi thân đây là các yếu tố đất, nước, lửa, gió.
Trong khi sống chuyên cần, nổ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. 

(Chín Giai Đọan Mục Nát Của Tử Thi)
Giai đoạn 1Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, trươg sình, xanh xám, rã thối. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.
Giai đoạn 2Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, bị qụa, diều hâu, kên kên, chim diệc đến rỉa thịt; hay bị chó, cọp, beo, chó rừng và hàng loạt các loài sinh vật khác đến xơi thịt. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.
Giai đoạn 3Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, với bộ xương còn nguyên, dính liền thịt và máu, nối lại với gân. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.
Giai đoạn 4Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, với bộ xương còn nguyên, không còn thịt nhưng còn dính máu, nối lại với gân. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.
Giai đoạn 5: Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, với bộ xương còn nguyên, không còn thịt không còn máu, nối lại với gân. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.
Giai đoạn 6Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, với bộ xương không còn dính lại nhau, mà rải rác nơi này nơi khác. Đây là xương tay, xương chân, xương mắt cá, xương ống quyển, xương đùi, xương hông, xương sườn, xương sống, xương vai, xương cổ, xương hàm, răng, xương sọ. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.
Giai đoạn 7Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn là xương đã biến thành màu trắng bạc vỏ ốc. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.
Giai đoạn 8Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn trơ trọi một đống xương tàn sau một năm. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.
Giai đoạn 9: Này nữa chư Tăng, Tỳ Khưu như khi xét thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn là xương rã nát thành bột. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy và không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm; những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. 

(Bốn Cấp Thiền)
Nhất thiền: 

  • Chư Tăng! Tỳ khưu ly dục ly bất thiện pháp (2*), với tầm (3*) (ý nghĩ, tư tưởng ) với tứ (suy ngẫm, suy diễn) cùng nguồn hỷ lạc (4*) phát sinh từ sự cách ly, nhập trú Nhất thiền. Ngay chính thân đây được nguồn hỉ lạc thấm nhập- thấm khắp- tràn ngập- lan tỏa, không sót nơi nào toàn châu thân mà không được thấm nhuần nguồn hỉ lạc từ sự cách ly.

Này chúng Tăng, tỉ dụ như một người chuyên việc tắm rửa hay người phụ tá rải bột tắm vào một dĩa đồng rồi nhồi trộn với nước làm cho thấm đi thấm lại, cho đến khi viên bột tắm, có đặc tính xà bông và mỡ trơn, được bảo hòa bên trong lẫn ngoài mà chất xà bông không rò rỉ nhỏ giọt.
Cũng vậy chúng Tăng, Tỳ khưu- ngay chính thân đây được nguồn hỉ lạc thấm nhập- thấm khắp- tràn ngập- lan tỏa, không sót nơi nào toàn châu thân mà không được thấm nhuần nguồn hỉ lạc từ sự cách ly.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm, những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. Lại nữa chư Tăng, Tỳ khưu cách ly tham và pháp bất thiện, với tầm với tứ, cùng nguồn hỉ lạc phát sinh từ sự cách ly, nhập trú Nhất thiền. 

Nhị thiền:

  • Lại nữa chư Tăng, Tỳ Khưu từ bỏ tầm và tứ, với nội tĩnh và nhất tâm, không còn tầm-tứ, với nguồn hỉ lạc khác phát sinh từ thiền định, nhập trú Nhị thiền. Ngay chính thân đây được nguồn hỉ lạc thấm nhập- thấm khắp- tràn ngập- lan tỏa, không sót nơi nào toàn châu thân mà không được thấm nhuần nguồn hỉ lạc từ thiền định.
    Này chúng Tăng, tỉ dụ như một hồ nước với suối nuớc ngầm lộ thiên làm cho nước cứ trào lên theo chiều cao; hoàn toàn không có nguồn nước nào khác chảy vào từ các phương Đông, Tây, Bắc, Nam; lại nữa không phải lúc nào cũng có trời mưa lớn. Và rồi nguồn nước suối ngầm tươi mát trong hồ cứ tự nhiên tuôn trào lên làm cho hồ nước được thấm nhập- thấm khắp- tràn ngập- lan tỏa bởi nước mát, không sót nơi nào khắp hồ nước mà không được thẩm nhuần nguồn nước tươi mát này.
    Cũng vậy chúng Tăng, Tỳ khưu- ngay chính thân đây được nguồn hỉ lạc thấm nhập- thấm khắp- tràn ngập- lan tỏa, không sót nơi nào toàn châu thân mà không được thẩm nhuần nguồn hỉ lạc từ thiền định.
    Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm, những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm. 

Tam thiền:

  • Lại nữa chư Tăng, Tỳ khưu từ bỏ hỉ, sống buông xả, giữ chánh niệm tỉnh giác, nguồn an lạc được cảm thọ qua thân như Thánh nhân tuyên bố “Sống buông xả- chánh niệm- an lạc”, nhập trú tam thiền. Ngay chính thân đây được nguồn an lạc thấm nhập- thấm khắp- tràn ngập- lan tỏa, không sót nơi nào toàn châu thân mà không được thẩm nhuần nguồn an lạc- không còn hỉ này.
    Này chúng Tăng, tỉ dụ như có hồ đầy súng, có hồ đầy sen, có hồ đầy sen trắng. Một số súng, sen hay sen trắng sinh ra trong nước, phát triển trong nước, không trồi lên khỏi nước, chỉ được nuôi dưỡng trong chiều sâu của nước; từ ngọn đến gốc được nước mát thấm nhập- thấm khắp- tràn ngập- lan tỏa, không sót cây súng hay sen hoặc sen trắng nào mà không được thẩm nhuần với nước tươi mát này.
    Cũng vậy chúng Tăng, Tỳ khưu- ngay chính thân đây được nguồn an lạc thấm nhập- thấm khắp- tràn ngập- lan tỏa, không sót nơi nào toàn châu thân mà không được thấm nhuần nguồn an lạc- không còn hỉ này.
    Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm, những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.

Tứ thiền:

  • Lại nữa chúng Tăng, Tỳ khưu từ bỏ lạc- từ bỏ khổ, cùng với sự đoạn diệt những vui buồn từ trước, dứt khổ- dứt lạc, buông xả- chánh niệm- thanh tịnh, trú nhập tứ thiền. Ngay chính thân đây lúc ngồi thiền được lan tỏa bởi nguồn tâm thuần khiết- thanh tịnh, không sót một nơi nào toàn châu thân mà không thấm nhuần nguồn tâm thuần khiết- thanh tịnh này.
    Này chúng Tăng, tỉ dụ như có một người ngồi phủ trùm lên tận đầu một tấm vải trắng, mà không để sót một phần nào toàn châu thân là không được phủ kín tấm vải trắng này.
    Cũng vậy chúng Tăng, Tỳ khưu- ngay chính thân đây lúc ngồi thiền được lan tỏa bởi nguồn tâm thuần khiết- thanh tịnh, không sót một nơi nào toàn châu thân mà không thấm nhuần nguồn tâm thuần khiết- thanh tịnh này.
    Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực và quyết tâm, những ưu tư thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, ngồi thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy các Tỳ Khưu, là luyện tập phát triển Thân hành niệm.

(Khuyến Tấn)
Bất cứ ai, này chúng Tăng, mà Thân Hành Niệm được luyện tập phát triển đầy đủ,
sẽ gom thu bất cứ thiện pháp nào thiên về sự thông hiểu cao cả (vijjābhāgiyā).
* Này chúng Tăng, tỉ dụ như bất cứ ai với đại dương thấm nhập vào tâm, sẽ gom thu bất cứ sông ngòi nào đều chảy về biển cả.
Cũng vậy, này chúng Tăng, bất cứ ai mà Thân Hành Niệm được luyện tập phát triển đầy đủ, sẽ gom thu bất cứ thiện pháp nào thiên về sự thông hiểu cao cả.
* Này chúng Tăng, bất cứ ai mà Thân hành niệm không được luyện tập, phát triển không đầy đủ, Thiên ma có cơ hội với y, Thiên ma sẽ ảnh hưởng đến các căn trần của y.
* Này chúng Tăng, tỉ dụ như có người ném một viên đá nặng xuống một khối đất sét ướt mềm, chúng Tỳ khưu nghĩ sao? Viên đá nặng có chìm xuống trong đất sét ướt mềm không? “Thưa có Đức Phật”.
Cũng vậy, chúng Tăng, bất cứ ai mà Thân hành niệm không được luyện tập, phát triển không đầy đủ, Thiên ma có cơ hội với y, Thiên ma sẽ ảnh hưởng đến các căn trần của y.
* Này chúng Tăng, tỉ dụ như có một thanh gỗ khô từ một cây đã chết, rồi một người đi đến và cầm theo que chà lửa: “Mình sẽ thắp ra ngọn lửa, sẽ biểu hiện ra nhiệt”. Các Tỳ khưu nghĩ sao? Sau khi người ấy đến cầm theo que chà lửa và chà xát vào thanh gỗ khô từ cây đã chết thì có thể tạo ra ngọn lửa và có phát nhiệt không?
“Thưa có Đức Phật”.
Cũng vậy, chúng Tăng; bất cứ ai mà Thân hành niệm không được luyện tập, phát triển không đầy đủ, Thiên ma có cơ hội với y, Thiên ma sẽ ảnh hưởng đến các căn trần của y.
* Này chúng Tăng, tỉ dụ như có một bình nước trống không được đặt trên cái kệ, rồi một người đi đến mang theo một lô nước. Các Tỳ khưu nghĩ thế nào? Người ấy có thể đổ thêm nước vào bình không?
“Thưa có thể, Đức Phật”.
Cũng vậy thôi, chúng Tăng; bất cứ ai mà Thân hành niệm không được luyện tập, phát triển không đầy đủ, Thiên ma có cơ hội với y, Thiên ma sẽ ảnh hưởng đến các căn trần của y.
* Này chúng Tăng, bất kỳ ai luyện tập phát triển Thân hành niệm đầy đủ , Thiên ma không có cơ hội với y, không ảnh hưởng các căn trần của y.
* Này chúng Tăng, tỉ dụ như có người ném một trái banh dây rất nhẹ vào tấm cửa làm bằng gỗ cứng. Các Tỳ khưu nghĩ thế nào? Người ném trái banh dây nhẹ có làm gì đựợc tấm cửa gỗ cứng không?
“Chắc chắn là không, thưa Đức Phật”.
Cũng như vậy chúng Tăng, bất kỳ ai luyện tập phát triển Thân hành niệm đầy đủ , Thiên ma không có cơ hội với y, không ảnh hưởng các căn trần của y.
* Này chúng Tăng, tỉ dụ như có một thanh gỗ ướt còn chất nhựa, rồi có người đi đến và cầm theo que chà lửa: “mình sẽ thắp ra ngọn lửa, sẽ biểu hiện ra nhiệt”. Các Tỳ khưu nghĩ sao? Sau khi người ấy đến cầm theo que chà lửa và chà xát vào thanh gỗ ướt còn chất nhựa thì có thể tạo ra ngọn lửa và có phát nhiệt không?
“Chắc chắn là không, thưa Đức Phật”.
Cũng như vậy chúng Tăng, bất kỳ ai luyện tập phát triển Thân hành niệm đầy đủ, Thiên ma không có cơ hội với y, không ảnh hưởng các căn trần của y.
* Này chúng tăng, tỉ dụ như có một bình đầy nước lên tận rìa mà con qụa có thể uống được, đặt trên một cái kệ; rồi có người mang đến một lô nước. Các Tỳ khưu nghĩ sao? Người đó có thể đổ thêm nước vào bình không?
“Không thể được, thưa Đức Phật”.
Cũng như vậy chúng Tăng, bất kỳ ai luyện tập phát triển Thân hành niệm đầy đủ , Thiên ma không có cơ hội với y, không ảnh hưởng các căn trần của y.
Bất cứ ai, chư Tăng, luyện tập phát triển Thân hành niệm đầy đủ; bất cứ thánh trí (abhinnā) nào liên hệ với những pháp có thể được chứng đạt, người ấy nhắm tâm vào chứng đạt thánh trí đó. Ngay đó người ấy trực diện chứng đắc, thấy biết cảnh giới chứng đắc.
* Này chúng tăng, tỉ dụ như có một bình đầy nước lên tận rìa mà con qụa có thể uống được, đặt trên một cái kệ. Rồi một người lực lưỡng khuấy động qua lại thì nước ấy có thể tuôn ra ngoài không?
“ Có thể, thưa Đức Phật”.
Cũng như vậy chúng Tăng, bất kỳ ai luyện tập phát triển Thân hành niệm đầy đủ; bất cứ thánh trí nào liên hệ với những pháp có thể được chứng đạt, người ấy nhắm tâm vào chứng đạt thánh trí đó. Ngay đó người ấy trực diện chứng đắc, thấy biết cảnh giới chứng đắc.
* Này chúng tăng, tỉ dụ như trên một khoảnh đất bằng hình chữ nhật có một cái ao bao quanh bởi bờ đê đầy nước mà con qụa có thể uống được. Rồi một người lực lưỡng tháo bờ đê ra tại nơi nào đó thì nước có tuôn ra ngoài không?
“ Thưa có, Đức Phật”.
Cũng như vậy chúng Tăng, bất kỳ ai luyện tập phát triển Thân hành niệm đầy đủ; bất cứ thánh trí nào liên hệ với những pháp có thể được chứng đạt, người ấy nhắm tâm vào chứng đạt thánh trí đó. Ngay đó người ấy trực diện chứng đắc, thấy biết cảnh giới chứng đắc.
* Này chúng tăng, tỉ dụ như tại một ngả tư đường nơi khoảnh đất tốt, một chiếc xe ngựa dừng lại với roi vọt được chuẩn bị sẵn sàng. Rồi một người điều khiển xe giỏi- người chuyên huấn luyện ngựa, leo lên xe nắm lấy cương với tay trái và cầm roi bằng tay mặt, điều khiển xe ngựa chạy tới chạy lui bất cứ theo lối nào tùy thích hoặc như ý muốn của mình.
Cũng như vậy chúng Tăng, bất kỳ ai luyện tập phát triển Thân hành niệm đầy đủ; bất cứ thánh trí nào liên hệ với những pháp có thể được chứng đạt, người ấy nhắm tâm vào chứng đạt thánh trí đó. Ngay đó người ấy trực diện chứng đắc, thấy biết cảnh giới chứng đắc.

(Mười Điều Thành Tựu)
Phép quán thân, này chư Tăng, khi được thực hành luyện tập phát triển đầy đủ, thành thục, vững chắc, hoàn tất, quen thuộc, thông suốt; thì mười thành tựu này được kỳ vọng.
Mười thành tựu như thế nào?
1. Trấn áp những điều thích hay không thích, không bị trấn áp bởi những điều không thích. Luôn luôn sống khống chế được những điều không thích xảy đến.
2. Trấn áp được sợ hãi khiếp nhựơc, không bị sợ hãi khiếp nhược khống chế.
3. Chịu đựng được lạnh, nóng, đói, khát, ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít, nói xấu, lời mích lòng, cảm thọ và khổ từ thân, châm chọc, hiểm ác, cay đắng, bất bình, không thích, đe dọa mạng sống.
4. Đối với bốn thiền, tâm ý thanh tịnh, sống tự tại an lạc, chứng đạt theo ý muốn, không có gì khó khăn, không có gì cản ngăn.
5. Chứng nghiệm hàng loạt các loại thần thông: từ một biến thành nhiều, từ nhiều biến thành một, tự hiện ra và biến mất (tàn hình), di chuyển không ngăn ngại qua tường qua rào qua núi dễ dàng như đi trong không gian. Độn thổ và trồi lên dễ dàng như đi trong nước. Băng qua nước không chìm dễ dàng như đi trên đất liền. Di chuyển trong không gian với tư thế ngồi thiền dễ dàng như chim cất cánh bay.
6. Đối với mặt trăng mặt trời (5*), quyền năng và vĩ đại, có thể tiếp xúc sờ mó bằng tay. Dùng thần thông phi thân đến khung trời Phạm thiên Brahma. Với thiên nhỉ thanh tịnh và siêu phàm có thể nghe thấu hai loại âm thanh của trời và người dù ở xa hay gần.
7. Biết rõ với tâm của mình có thể đọc được tâm của chúng sanh khác hay tâm người khác: khi tâm có tham biết tâm đang tham, tâm không tham biết tâm không tham, tâm có sân biết tâm đang sân, tâm không sân biết tâm không sân, tâm có si biết tâm đang si, tâm không si biết tâm không si, tâm tập trung biết tâm đang tập trung, tâm lang thang biết tâm đang lang thang, tâm phóng khoáng biết có tâm phóng khoáng, tâm không phóng khoáng biết tâm không phóng khoáng, tâm không vô thượng biết tâm không vô thượng, tâm vô thượng biết có tâm vô thượng, tâm tĩnh định biết tâm đang tĩnh định, tâm không tĩnh định biết tâm không tĩnh định. Tâm giải thoát biết có tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết tâm không giải thoát.
8. Nhớ lại những tiền kiếp như: một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp, năm kiếp, mười kiếp, hai mươi kiếp, ba mươi kiếp, bốn mươi kiếp, năm mươi kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, vô số kỉ nguyên biến hoại, vô số kỉ nguyên biến hoá, vô sô kỉ nguyên biến hoại và biến hóa. Ở nơi này nơi kia có tên này, gia đình này, giai cấp này, thực phẩm này, từng trải vui khổ này, nếp sống này, chết nơi kia sinh lại nơi đây. Với mọi đặc điểm mọi chi tiết, nhớ lại những tiền kiếp khác xưa của mình.
9. Với thiên nhãn thanh tịnh và siêu phàm, thấy được sự chết và tái sinh của các chúng sanh khác: thấp kém, sang trọng, xinh đẹp, xấu xí, vận may, vận rủi, biết đươc chúng sinh ra đời tùy theo duyên nghiệp của mình.
10. Dứt sạch mọi ô nhiễm, không còn nhiễm ô, tâm khai phóng, trí tuệ khai phóng,
sống tự tại chứng đắc thánh trí ngay trong đời này.
Khi Thân hành niệm được thực hành luyện tập phát triển đầy đủ, thành thục, vững chắc, hoàn tất, quen thuộc, thông suốt; thì mười thành tựu này được kỳ vọng.
Đức Phật thuyết pháp xong, các Tỳ Khưu hoan hỉ đón nhận lời dạy của Ngài. 


(1*) Thân ô nhiễm hay bất tịnh gồm có 32 món: 20 món đặc và 12 món lỏng, nhưng trong nguyên văn Pāli chỉ có 19 món đặc, nếu muốn người đọc có thể thêm vào như bàng quang, hậu môn, etc…

(2*) Bất thiện pháp có thể hiểu như 5 Chướng ngại (Triền cái) trong phần Quán Pháp – Kinh Tứ Niệm Xứ. Đó là Tham, Sân, Buồn ngủ/Dã dượi, Xao lãng/Hối tiếc, Nghi ngờ. 

(3*) Tầm và Tứ: tầm cũng có thể hiểu là tìm kiếm và tứ là quan sát. Ví như khi tập Nhất thiền, hành giả tìm kiếm (tầm) một đề mục/đối tượng như hơi thở để quán, rồi chú tâm quan sát (tứ) hơi thở ra/vô một cách liên tục miên mật. 

(4*) Hỷ để chỉ cho sự hoan hỷ thuộc về tâm, Lạc chỉ sự an lạc của thân.

(5*) Đức Phật có nói qúa về loại thần thông này không? Các phi hành gia Mỹ đã bay và cắm cờ Mỹ trên mặt trăng năm 1969. Còn mặt trời qúa nóng sẽ đốt cháy mọi thứ, nhưng người đã chứng được loại thần thông này thì đâu có sao. Người viết có một người bạn được một vị Phật Bích Chi đang tại thế dạy cho nhiều loại thần thông và đã tận mắt được chứng kiến.

=================================================

Để bổ túc cho kinh trên, sau đây là bản kinh “16 phép quán niệm hơi thở”. 

ĐiềnTrungMinh dịch từ Pāli 05/02/2021 

Saṃyutta nikāya – Tương Ưng Kinh
SN54.1: Kinh Một Pháp (16 Phép Quán Hơi Thở) – Ekadhamma Sutta
ĐiềnTrungMinh dịch từ Pāli 05/02/2021

Chú thích: Bản kinh này được trích ra phần căn bản từ Kinh Trung Bộ MN118 Chánh Niệm Hơi Thở – Ānāpānassati Sutta

Tại Sāvatthi.
Nơi đây, Đức Phật thuyết giảng:
– Chư Tỳ khưu, khi một pháp này được tu tập và phát triển, sẽ đem lại kết qủa và hữu ích.
Một pháp như thế nào? Đó là chánh niệm hơi thở.
Vậy chư tăng, tu tập như thế nào, phát triển thế nào chánh niệm hơi thở để có kết quả và hữu ích?
Đó là, chúng tăng, một hành giả đi đến cụm rừng, gốc cây, chòi nhà trống vắng, ngồi xếp bằng tréo chân, giữ thân ngay thẳng, và hướng chánh niệm trước mặt.
Và rồi, chánh niệm hít vô, chánh niệm thở ra.
(Liên hệ về thân)
1/ Hơi dài hít vô – biết rõ hơi dài đang hít vô. Hơi dài thở ra – biết rõ hơi dài đang thở ra.
2/ Hơi ngắn hít vô – biết rõ hơi ngắn đang hít vô. Hơi ngắn thở ra – biết rõ hơi ngắn đang thở ra.
3/ Cảm nghiệm toàn thân, hít vô thực tập. Cảm nghiệm toàn thân, thở ra thực tập.
4/ An tịnh thân hành, hít vô thực tập. An tịnh thân hành, thở ra thực tập.
(Liên hệ về thọ)
5/ Cảm nghiệm hỷ, hít vô thực tập. Cảm nghiệm hỷ, thở ra thực tập.
6/ Cảm nghiệm lạc, hít vô thực tập. Cảm nghiệm lạc, thở ra thực tập.
7/ Cảm nghiệm tâm hành, hít vô thực tập. Cảm nghiệm tâm hành, thở ra thực tập.
8/ An tịnh tâm hành, hít vô thực tập. An tịnh tâm hành, thở ra thực tập.
(Liên hệ về tâm)
9/ Cảm nghiệm tâm, hít vô thực tập. Cảm nghiệm tâm, thở ra thực tập.
10/ Tâm phấn chấn, hít vô thực tập.Tâm phấn chấn, thở ra thực tập.
11/ Tâm định, hít vô thực tập. Tâm định, thở ra thực tập.
12/ Tâm giải thoát (không tham-sân-si), hít vô thực tập. Tâm giải thoát, thở ra thực tập.
(Liên hệ về pháp)
13/ Quán vô thường, hít vô thực tập. Quán vô thường, thở ra thực tập.
14/ Quán ly tham, hít vô thực tập. Quán ly tham, thở ra thực tập.
15/ Quán ngưng diệt (vô vi), hít vô thực tập. Quán ngưng diệt, thở ra thực tập.
16/ Quán buông xả, hít vô thực tập. Quán buông xả, thở ra thực tập.

Chúng tăng, như thế đó là tu tập và phát triển chánh niệm hơi thở thật có kết qủa và hữu ích. 

Thân-Thọ-Tâm-Pháp trong Kinh NiệmXứ (Satipaṭṭhāna Sutta) và ĐạiNiệmXứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta).


Thân Hành Niệm là TrungKinh Kāyagatāsati Sutta- tiếng Pāli, nội dung tương đối dễ hiểu và đơn giản để thực tập. Đây là kinh cùng với kinh NiệmXứ là 2 bản kinh quan trọng nhất để tu tập hướng đến giải thoát. Kinh này đã được Đức Phật Thích Ca Gotama giảng thuyết tại Savatthi (XáVệ)- ẤnĐộ cách cách nay 2600 năm, trước các tỳ khưu của Ngài. Đây là phần đầu QuánThân trong 4 phép quán Thân-Thọ-Tâm-Pháp trong Kinh NiệmXứ (Satipaṭṭhāna Sutta) và ĐạiNiệmXứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta). Đức Phật thêm bốn bậc thiền (NhấtThiền, NhịThiền, TamThiền, TứThiền) vào phần Quán Thân để tạo thành kinh này.

Trong TrungKinh Mahāsaccaka Sutta-MN36, Đức Phật thuyết cho học giả Saccaka Nigantha- là con trai của một lãnh tụ giáo phái nổi tiếng thời đó, nói về hành trình chứng đắc của Ngài- từ khi rời bỏ hoàng cung ra đi, rồi tìm đến tu tập các bậc thiền vô sắc với 2 thiền sư Alāra Kālāma và Uddaka Rama. Không cảm nhận được giải thoát nên Ngài lại ra đi tu khổ hạnh 6 năm cùng với 5 anh em KiềuTrầnNhư. Vì cứ lầm tưởng rằng khổ đau là do từ cái thân này nên phải hành hạ thân xác cho tàn lụi để đạt giải thoát, nhưng đến khi chỉ còn da bọc xương, sờ tay vào bụng thấy xương sống và sờ tay vào xương sống thấy bụng thì Ngài tỉnh ngộ- từ bỏ khổ hạnh. Trong một đêm, ngồi tĩnh lặng dưới cội cây: ta nhớ lại khi phụ thân ta dòng họ Thích ca (Sakka) đang bận việc thì ta ngồi dưới bóng cây mát mẻ, ly dục- ly pháp bất thiện, với tầm (ý tưởng/truy tầm) với tứ (suy ngẫm/quan sát ý tứ), với hỷ lạc từ ly dục, ta nhập trú vào NhấtThiền. Vậy lộ trình này có dẫn đến giác ngộ không? Rồi ta có nhận thức này: “đó là lộ trình dẫn đến giác ngộ”. Rồi Ngài tiếp tục với NhịThiền, TamThiền và TứThiền. Lúc tâm định tĩnh, trong sáng, tinh khiết, không luyến đắm, dứt sạch ham muốn, nhu nhuyễn, khả dụng, ổn định, tĩnh tịch; ta hướng tâm tới TúcMạngMinh- nhớ lại đủ loại đời sống đã qua… Rồi ta hướng tâm tới ThiênNhãnMinh- thấy được chúng sanh chết đi và tái sinh… Rồi ta hướng tâm tới Lậu tận minh- biết rõ như thật đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là lộ trình dẫn đến diệt khổ… Ta biết rõ như thật đây là uế nhiễm- phiền não, đây là uế nhiễm tập khởi, đây là uế nhiễm hoại diệt, đây là lộ trình dẫn đến đoạn diệt uế nhiễm.
Thấy và biết như vậy, dục lậu- hữu lậu được khai phóng khỏi tâm, vô minh lậu được khai phóng khỏi tâm. Trong sự khai phóng, khởi lên trí tuệ giải thoát: “Sanh chấm dứt, sống thánh thiện, việc cần làm đã xong, không còn gì trở lại trạng huống hiện hữu (phiền não-khổ đau) này nữa”.

Trong phần khuyến tấn, Đức Phật nêu rõ: hành giả chí thú nỗ lực tu tập kinh này sẽ hưởng được 10 thành tựu như sức khỏe tốt lành, đạt những ý nguyện, chứng đắc các loại thần thông như ThầnTúcTHông, ThiênNhĩThông, ThaTâmThông, TúcMạngMinh, ThiênNhãnMinh, và LậuTậnMinh, tiến đến giác ngộ giải thoát.

Hãy chọn một nơi thanh vắng, trong tư thế ngồi thiền, quán tưởng- tác ý bản kinh này mỗi lần ít nhất 30 phút, tùy theo khả năng thực tập càng nhiều lần càng tốt trong ngày, tinh tấn-nỗ lực-quyết tâm sẽ thực chứng thành quả.

PHẦN TU TẬP- THỰC HÀNH
Này chư tỳ khưu, hành giả tìm đến khu rừng, gốc cây, nơi trú trống vắng, ngồi xếp bằng tréo chân, thân thẳng đứng, hướng chánh niệm trước mặt.

(Quán Niệm Hơi Thở)
– Hít vô dài, biết rõ đang hít vô dài; thở ra dài, biết rõ đang thở ra dài.
– Hít vô ngắn, biết rõ đang hít vô vô ngắn; thở ra ngắn, biết rõ đang thở ra ngắn.
– Toàn thân cảm giác (hơi thở) hít vô, thực tập! Toàn thân cảm giác thở ra, thực tập!
– Tĩnh lặng thân hành hít vô, thực tập! Tĩnh lặng thân hành thở ra, thực tập!

(Bốn Tư Thế: Đi Đứng Ngồi Nằm)
– Khi đi chỉ biết đang đi, khi đứng chỉ biết đang đứng, khi ngồi chỉ biết đang ngồi, khi nằm chỉ biết đang nằm. Hoặc thân đang hoạt dụng ở tư thế nào thì luôn biết rõ như vậy.
Trong khi sống chuyên cần, n
ỗ lực và quyết tâm; vui buồn- thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, hành thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy là hành giả luyện tập- phát triển ThânHànhNiệm.

(Chánh Niệm- Tỉnh Giác)
– Hành giả đi tới đi lui- rõ ràng thường biết. Nhìn tới nhìn quanh- rõ ràng thường biết. Co duỗi tay chân – rõ ràng thường biết. Khoác cà sa, bưng bát, mặc y- rõ ràng thường biết. Ăn, uống, nhai, nếm- rõ ràng thường biết. Đại tiện, tiểu tiện- rõ ràng thường biết. Đi, đứng, ngồi, ngủ nghỉ, thức giấc, nói chuyện, im lặng- rõ ràng thường biết. Thân đang làm việc gì luôn biết rõ như vậy.

(Thân Ô Trược- Bất Tịnh)
– Hành giả quán xét thân này từ đáy chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, được da bọc lại, tích chứa đầy những loại vật thể dơ bẩn khác nhau. Nơi thân này là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, dạ dày, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất dầu, nước miếng, nước mũi, dịch khớp xương, nước tiểu.

(Thân Bốn Yếu Tố- Tứ Đại)
– Này nữa chư Tăng, hành giả quán xét thân này hoặc qua tư thế hoặc qua sự vận hành của các yếu tố. Nơi thân đây là các yếu tố Đất, Nước, Gió, Lửa (chất đặc, chất lỏng, chất hơi, nhiệt độ nóng lạnh).

(Chín Giai Đoạn Mục Nát Của Tử Thi)
*Giai đoạn 1: Hành giả quán như khi nhìn thấy một tử thi bị vứt bỏ ở nghĩa địa, một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, trương sình, tái xám, rã thối.
*Giai đoạn 2: Rồi bị chim qụa, diều hâu, kên kên, cọp, beo, chó, chồn và hàng loạt các loài sinh vật khác đến tranh giành xơi thịt.
*Giai đoạn 3: Với bộ xương còn nguyên, dính liền thịt và máu, nối lại với gân.
*Giai đoạn 4: Với bộ xương còn nguyên, không còn thịt nhưng còn dính máu, nối lại với gân.
*Giai đoạn 5: Với bộ xương còn nguyên, không còn thịt không còn máu, nối lại với gân.
*Giai đoạn 6: Với bộ xương không còn dính lại nhau, rải rác nơi này nơi khác, đây là xương tay, xương chân, xương mắt cá, xương ống quyển, xương đùi, xương mông, xương sườn, xương sống, xương vai, xương cổ, xương cằm, răng, xương sọ.
*Giai đoạn 7: Chỉ còn là đống xương đã biến thành màu trắng vỏ ốc.
*Giai đoạn 8: Chỉ còn trơ trọi một mớ xương tàn rụi- vỡ vụn sau một năm.
*Giai đoạn 9: Chỉ còn là mớ xương rã nát thành bột.

Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy, không trốn thoát đâu được.
Trong khi sống chuyên cần, nỗ lực- quyết tâm; vui buồn- thế sự dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, hành thiền nhất tâm nhập định. Và như vậy là hành gỉa tu tập phát triển ThânHànhNiệm.

(Bốn Cấp Thiền Hữu Sắc)
Đây là 4 bậc thiền hữu sắc mà Đức Phật ThíchCa Gotama đã thiền định, saư đó hướng đến TamMinh và đạt giác ngộ giải thoát như Ngài đã thuật lại trong TrungKinh Mahāsaccaka Sutta-MN36.

*Nhất thiền :
Hành gỉa ly dục- ly bất thiện pháp, với tầm với tứ (hơi thở- hít vào thở ra) cùng nguồn hỷ lạc từ ly dục, nhập trú trong Nhất thiền. Cảm nhận nguồn hỉ lạc từ ly dục thấm nhập- lan tỏa- tràn đầy khắp châu thân.

Ví như có người nhồi bột giặt với nước, thấm nhuấn với nước, trộn đều với nước, lấp đầy, lan tỏa với nước. Tương tự, hành giả thấm nhuần, tẩm ướt, lấp đầy, lan tỏa khắp thân thể với niềm hỷ và lạc từ ly dục qua Nhất thiền chánh định.

*Nhị thiền::
Hành giả từ bỏ tầm và tứ, nội tĩnh- nhất tâm, không tầm không tứ, với nguồn hỷ
 lạc từ thiền định thấm nhập- lan tỏa- tràn đầy khắp châu thân.

Giả sử có một hồ nước trong xanh được cung cấp từ giếng suối phun từ bên trong, nước trong mát phun ra thấm nhuần, trộn đều, lấp đầy, lan tỏa khắp hồ nước. Cũng như vậy, hành giả thấm nhuần, tẩm ướt, lấp đầy, lan tỏa khắp thân thể với nguòn hỷ và lạc từ thiền định qua Nhị thiền chánh định.

*Tam thiền:
Hành giả từ bỏ hỉ, sống buông xả, chánh niệm tỉnh giác, nguồn an lạc được cảm thọ qua thân như Thánh nhân tuyên bố “Sống buông xả- chánh niệm- an lạc”, nhập trú trong Tam thiền. Nguồn an lạc thấm nhập- lan tỏa- tràn đầy khắp châu thân.

Ví như các loại cây sen súng sinh sống trong đầm nước tươi mát, từ rễ đến ngọn đều được thấm nhuần, tẩm uớt, lấp đầy, lan tỏa với nước tươi mát. Tương tự, hành giả thấm nhuần, tẩm ướt, lấp đầy, lan tỏa khắp thân thể với nguồn an lạc (không còn hỳ) qua Tam thiền chánh định.

*Tứ thiền :
Hành giả từ bỏ lạc- từ bỏ khổ, cùng với đoạn diệt những vui buồn từ trước, dứt khổ- dứt lạc, buông xả- chánh niệm- thanh tịnh, trú nhập trong Tứ thiền. Nguồn tâm trong sáng-thuần khiết-thanh tịnh thấm nhập- lan tỏa- tràn đầy khắp châu thân.

Giả sử như có người trùm khắp- che kín thân từ đầu đến chân mốt tấm vải trắng. Tương tự như vậy, hành giả thấm nhuần- lan tỏa- tràn đầy khắp thân thể với nguồn tâm trong sáng- thuần khiết- thanh tịnh qua Tứ thiền chánh định.

Sống chuyên cần, nỗ lực, quyết tâm, mọi vui buồn- thế sự được dứt trừ. Do được dứt trừ, nội tâm tĩnh lặng, hành thiền nhất tâm nhập định. Và như thế là hành giả tu tập phát triển ThânHànhNiệm.

** (Để đơn giản hóa việc thực tập, các phần ví dụ được lướt qua ở đây)

PHẦN KHUYẾT TẤN- THÀNH TỰU
(Khuyến Tấn)
Bất cứ ai, này chúng Tăng, mà ThânHànhNiệm được luyện tập- phát triển đầy đủ, sẽ gom thu bất cứ thiện pháp nào hướng về sự thông hiểu cao cả nhất (vijjābhāgiyā).

  • Tỉ dụ như bất cứ ai với đại dương thấm nhập vào tâm, sẽ gom thu bất cứ sông ngòi nào đều chảy về biển cả.
    Cũng vậy, này chúng Tăng, bất cứ ai có ThânHànhNiệm được luyện tập- phát triển đầy đủ, sẽ gom thu bất cứ thiện pháp nào hướng về sự thông hiểu cao cả nhất.
  • Bất cứ ai mà ThânHànhNiệm không được luyện tập- phát triển không đầy đủ, Thiên ma có cơ hội với y, Thiên ma sẽ thâm nhập đến các căn trần của y.
  • Bất cứ ai luyện tập- phát triển ThânHànhNiệm đầy đủ; bất cứ thánh trí (abhinnā) nào liên hệ với các pháp có thể được chứng đạt, người ấy nhắm tâm vào chứng đạt thánh trí đó. Ngay đó, người ấy trực diện chứng đắc, thấy biết cảnh giới chứng đắc của chính mình.

(Mười Điều Thành Tựu)
ThânHànhNiệm, này chư Tăng, khi được thực hành luyện tập- phát triển đầy đủ, thành thục, vững chắc, hoàn tất, quen thuộc, thông suốt, thì mười thành tựu này được kỳ vọng.
Mười thành tựu như thế nào?

1. Trấn áp những điều thích hay không thích, không bị trấn áp bởi những điều không thích. Luôn luôn sống- khống chế được những điều không thích xảy đến.

2. Trấn áp được sợ hãi khiếp nhược, không bị sợ hãi khiếp nhược khống chế.

3. Chịu đựng được lạnh, nóng, đói, khát, ruồi muỗi, gió, nắng, rắn rít, nói xấu, lời mích lòng, cảm thọ- khổ từ thân, lời châm chọc, hiểm ác, cay đắng, bất bình, không thích, đe dọa mạng sống.

4. Đối với bốn thiền, tâm ý thanh tịnh, sống tự tại an lạc, chứng đạt theo ý muốn, không có gì khó khăn, không có gì cản ngăn.

5. Chứng nghiệm hàng loạt các loại thần thông (1. ThầnTúcThông): từ một biến thành nhiều, từ nhiều biến thành một, tự hiện ra và biến mất (tàn hình), di chuyển không ngăn ngại qua tường- qua rào- qua núi dễ dàng như xuyên thấu trong không gian. Độn thổ và trồi lên dễ dàng như xuyên thấu trong nước. Băng qua nước không chìm- dễ dàng như đi trên đất liền. Di chuyển trong không gian với tư thế ngồi thiền dễ dàng như chim tung cánh bay.

6. Đối với mặt trăng mặt trời, quyền năng và vĩ đại, có thể tiếp xúc sờ mó bằng tay. Dùng thần thông phi thân đến cõi trời Phạm thiên Brahma. Với thiên nhĩ thanh tịnh và siêu phàm có thể nghe thấu hai loại âm thanh của trời và người dù ở xa hay gần (2. ThiênNhĩThông).

7. Biết rõ với tâm của mình có thể đọc được tâm của chúng sanh khác hay tâm người khác (3. ThaTâmThông)Đây cũng là phần QúanTâm trong KinhNiệmXứ, chuyên chú thực tập phần này sẽ có khả năng siêu phàm ThaTâmThông- biết được tâm của ngưòi khác: (1) khi tâm có tham biết tâm đang tham, tâm không tham biết tâm không tham, (2) tâm có sân biết tâm đang sân, tâm không sân biết tâm không sân, (3) tâm có si biết tâm đang si, tâm không si biết tâm không si, (4) tâm tập trung biết tâm đang tập trung, tâm lang thang biết tâm đang lang thang, (5) tâm rộng lượng biết có tâm rộng lượng, tâm không độ lượng biết tâm không độ lượng, (6) tâm vượt thượng biết tâm vượt thượng, tâm vô thượng biết có tâm vô thượng, (7) tâm tĩnh định biết tâm đang tĩnh định, tâm không định biết tâm không định, (8) tâm giải thoát biết có tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết tâm không giải thoát.

8. Nhớ lại những tiền kiếp (4. TúcMạngMinh) như : một đời, 2 đời, 3 đời, 4 đời, 5 đời… 10 đời, 20 đời, 30 đời, 40 đời, 50 đời, 100 đời, 1000 đời, trăm ngàn đời, vô số vĩnh kiếp (kappa- aeon) biến hoại, vô số vĩnh kiếp biến hóa, vô sô vĩnh kiếp biến hoại và biến hóa. Ở nơi này nơi kia có tên này, gia đình này, giai cấp này, thực phẩm này, từng trải vui khổ này, nếp sống này, chết nơi kia sinh lại nơi đây. Với mọi đặc điểm mọi chi tiết, nhớ lại những tiền kiếp xa xưa của mình.

9. Với thiên nhãn thanh tịnh và siêu phàm (5. ThiênNhãnMinh), thấy được sự chết và tái sinh của các chúng sanh khác: thấp kém, sang trọng, xinh đẹp, xấu xí, vận may, vận rủi, biết rõ chúng sinh ra đời tùy theo duyên nghiệp của mình.

10. Dứt sạch mọi ô nhiễm (6. LậuTậnMinh), không còn nhiễm ô, tâm khai phóng, trí tuệ khai phóng, sống tự tại chứng đắc thánh trí (ALaHán) ngay trong đời này.

Khi ThânHànhNiệm được thực hành- luyện tập phát triển đầy đủ, thành thục, vững chắc, hoàn tất, quen thuộc, thông suốt, thì mười thành tựu này được kỳ vọng.
Đức Phật thuyết pháp xong, các Tỳ Khưu hoan hỷ đón nhận lời dạy của Ngài.

Đại Niệm Xứ MahāSatipaṭṭhānā Sutta

 Đây là bản kinh tinh túy và quan trọng nhất để tự tu tập- rèn luyện bản thân, hướng đến giác ngộ giải thoát ngay trong đời sống này. Kinh NiệmXứ hay TứNiệmXứ là bài kinh thu gọn từ TrườngKinh Digha Nikāya- DN 22 hay ĐạiNiệmXứ MahāSatipaṭṭhānā Sutta– được Đức Phật thuyết giảng tại xứ Kurū- thuộc địa phận Delhi- thủ đô ẤnĐộ ngày nay.

Vì bản kinh khá dài, để giản tiện hóa việc thực hành, các phần ví dụ và những câu lập đi lập lại nhiều lần được lướt qua ở đây và chỉ những phần chính yếu được đề cập đến, giúp hành gỉa nắm bắt dễ dàng những điểm căn bàn mấu chốt, tập trung vào 4 phép quán: Thân-Thọ-Tâm-Pháp.

Ngoài ra, trong Kinh TươngƯng Saṁyutta Nikāya SN 47.25: Một BàLamôn-Aññatarabrāhmaṇa Sutta: tại Sāvatthī Đức Phật thuyếp pháp cho một vị Bàlamôn rằng bất cứ hành giả nào đối với BốnNiệmXứ này, nếu thực hành chuyên cần và nghiêm túc, sau khi Như Lai nhập diệt, Chánh pháp sẽ còn trường tồn. Hay nói cách khác: chừng nào Kinh TứNiệmXứ bị thất truyền- là lúc ChánhPháp Phật tới thời kỳ mạt pháp vậy.

Trong phần KhuyếnTấn, ĐứcPhật nói rằng vị nào quyết tâm- cần mẫn- chí thú tu tập theo phương thức này từ 7 ngày cho đến 7 nămsẽ kỳ vọng chứng đạt một trong 2 ThánhQủa: (1) hoặc là ToànTri ALaHán, đạt NiếtBàn giải thoát ngay trong đời sống này- vượt thoát vòng luân hồi sinh tử, (2) hoặc nếu còn chút tồn đọng dính mắc (upādisese) thì sẽ chứng qủa vị BấtLai (Anāgāmī)- được hóa sanh về cõi Tịnh Cư Thiên (Suddhavāsa Deva), hưởng thọ mạng rất bền lâu trong nhiều ngàn vĩnh kiếp (kappa), nhan sắc tốt tươi xinh đẹp, với nhiều công đức, tiếp tục con đường ALaHán qủa.

Phương pháp được đề xuất để thực hành bản kinh này là tìm một nơi thanh vắng, ngồi xếp bằng trong tư thế thiền định với thân mình thẳng lên. Sau khi đã ghi nhớ bài kinh hoặc những phần chính yếu, hãy tác ý- niệm thầm bản kinh này khoảng 30-60 phút theo thứ tự quán tuởng: thân- thọ- tâm- pháp. Ngoài ra để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tu tập, hành giả cũng có thể chỉ chọn 1 hay nhiều hơn trong 4 phép quán, rồi kết hợp thực tập với 4 bậc thiền như trong trường hợp kinh ThânHànhNiệm (kết hợp phần quán thân với 4 thiền).

================================

Thực Tập Bốn Niệm Xứ – Cattāro Satipaṭṭhānā

PHẦN TU TẬP- THỰC HÀNH

Này chư tỳ khưu, đây là con đường độc đáo, làm thanh tịnh chúng sanh, vượt qua sầu thảm, tận diệt khổ buồn, thành đạt minh tuệ, thực chứng niết bàn. Đó là BốnNiệmXứ: sống quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp; nỗ lực, tỉnh giác, chánh niệm, xa lìa tham buồn thế gian.

(1) Quán Thân Như Thân

Này chư tỳ khưu, hành giả tìm đến khu rừng, gốc cây, nơi trú trống vắng, ngồi xếp bằng tréo chân, thân thẳng đứng, hướng chánh niệm trước mặt, chánh niệm hít vô- chánh niệm thở ra…

(1. Quán Niệm Hơi Thở)
– Hít vô dài, biết rõ đang hít vô dài; thở ra dài, biết rõ đang thở ra dài.
– Hít vô ngắn, biết rõ đang hít vô vô ngắn; thở ra ngắn, biết rõ đang thở ra ngắn.
– Toàn thân cảm giác (hơi thở) hít vô, thực tập! Toàn thân cảm giác thở ra, thực tập!
– Tĩnh lặng thân hành hít vô, thực tập! Tĩnh lặng thân hành thở ra, thực tập!

(2. Bốn Tư Thế: Đi Đứng Ngồi Nằm)
– Khi đi chỉ biết đang đi, khi đứng chỉ biết đang đứng, khi ngồi chỉ biết đang ngồi, khi nằm chỉ biết đang nằm. Hoặc thân đang hoạt dụng ở tư thế nào luôn biết rõ như vậy.

(3. Chánh Niệm- Tỉnh Giác)
– Hành gỉa đi tới đi lui- rõ ràng thường biết. Nhìn tới nhìn quanh- rõ ràng thường biết. Co duỗi tay chân – rõ ràng thường biết. Khoát cà sa, bưng bát, mặc y- rõ ràng thường biết. Ăn, uống, nhai, nếm- rõ ràng thường biết. Đại tiện, tiểu tiện- rõ ràng thường biết. Đi, đứng, ngồi, ngủ nghỉ, thức giấc, nói chuyện, im lặng- rõ ràng thường biết. Thân đang làm việc gì luôn biết rõ như vậy.

(4. Thân Nhơ Bẩn- Bất Tịnh)
– Hành giả quán xét thân này từ đáy chân trở lên và từ đỉnh tóc trở xuống, được da bọc lại, tích chứa đầy những loại vật thể dơ bẩn khác nhau. Nơi thân này là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, cách mô, lá sách, phổi, ruột, màng ruột, dạ dày, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất dầu, nước miếng, nước mũi, dịch khớp xương, nước tiểu.

(5. Thân Bốn Yếu Tố- Tứ Đại)
– Này nữa chư Tăng, hành giả quán xét thân này hoặc qua tư thế hoặc qua sự vận hành của các yếu tố. Nơi thân đây là các yếu tố Đất, Nước, Gió, Lửa (chất đặc, chất lỏng, chât hơi, nhiệt độ nóng lạnh).

(6. Chín Giai Đọan Mục Nát Của Tử Thi)
*Giai đoạn 1: Hành gỉa quán như khi nhìn thấy một xác chết bị vứt bỏ ở nghĩa địa, một ngày- hai ngày- ba ngày, chương sình, tái xám, rã thối. Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy, không trốn thoát đâu được.
*Giai đoạn 2: Rồi bị chim qụa, diều hâu, kên kên, cọp, beo, chó, chồn và hàng loạt các loài sinh vật khác đến tranh giành xơi thịt.
*Giai đoạn 3: Với bộ xương còn nguyên, dính liền thịt và máu, nối lại với gân.
*Giai đoạn 4: Với bộ xương còn nguyên, không còn thịt nhưng còn dính máu, nối lại với gân.
*Giai đoạn 5: Với bộ xương còn nguyên, không còn thịt không còn máu, nối lại với gân.
*Giai đoạn 6: Với bộ xương không còn dính liền nhau, rải rác nơi này nơi khác, đây là xương tay, xương chân, xương mắt cá, xương ống quyển, xương đùi, xương mông, xương sườn, xương sống, xương vai, xương cổ, xương cằm, răng, xương sọ.
*Giai đoạn 7: Chỉ còn là đống xương đã biến thành màu trắng vỏ ốc.
*Giai đoạn 8: Chỉ còn trơ trọi một mớ xương tàn rụi- vỡ vụn sau một năm.
*Giai đoạn 9: Chỉ còn là mớ xương rã nát thành bột.
Rồi ngay chính bản thân đây cũng được quán xét tương tự: bản chất của thân là như vậy, sẽ trở thành như vậy, không trốn thoát đâu được.
Như thế, hành gỉa sống:
– Quán thân nơi thân bên trong, hoặc quán thân nơi thân bên ngoài, hoặc quán thân nơi thân bên trong lẫn bên ngoài.
– Quán những gì sinh khởi nơi thân, hoặc quán những gì ngưng diệt nơi thân, hoặc quán những gì sinh khởi lẫn ngưng diệt nơi thân.
 Ngay thân đây, chánh niệm được thiết lập. Cho đến mức độ chỉ còn thuần hiểu biết và thuần chánh niệm, sống độc lập, không dính mắc bất cứ những gì của thế gian. Này chúng Tăng, đó là hành gỉa sống quán thân như thân.

(2) Quán Thọ Như Thọ

Như thế nào chúng Tăng, hành gỉa sống quán thọ như thọ?
Nơi đây, hành gỉa:
(1) Với cảm giác an lạc, biết rõ đang có cảm giác an lạc.
(2) Với cảm giác khổ đau, biết rõ đang có cảm giác khổ đau.
(3) Với cảm giác vô khổ- vô lạc, biết rõ đang có cảm giác vô khổ- vô lạc.
(4) Với cảm giác lạc nhục dục, biết rõ đang có cảm giác lạc nhục dục.
(5) Với cảm giác khổ nhục dục, biết rõ đang có cảm giác khổ nhục dục.
(6) Với cảm giác vô khổ- vô lạc nhục dục, biết rõ đang có cảm giác vô khổ- vô lạc nhục dục.
(7) Với cảm giác lạc tinh thần, biết rõ đang có cảm giác lạc tinh thần.
(8) Với cảm giác khổ tinh thần, biết rõ đang có cảm giác khổ tinh thần.
(9) Với cảm giác vô khổ- vô lạc tinh thần, biết rõ đang có cảm giác vô khổ- vô lạc tinh thần.
Như thế, hành gỉa:

– Sống quán thọ nơi thọ bên trong, hoặc sống quán thọ nơi thọ bên ngoài, hoặc sống quán thọ nơi thọ bên trong lẫn bên ngoài.
– Sống quán những gì sinh khởi nơi thọ, hoặc sống quán những gì ngưng diệt nơi thọ, hoặc sống quán những gì sinh khởi lẫn ngưng diệt nơi thọ.
 Ngay thọ đây, chánh niệm được thiết lập. Cho đến mức độ chỉ còn thuần hiểu biết và thuần chánh niệm, sống độc lập, không dính mắc bất cứ những gì của thế gian. Này chúng Tăng, đó là hành gỉa sống quán thọ như thọ.

(3) Quán Tâm Như Tâm

Như thế nào chúng Tăng, hành gỉa sống quán tâm như tâm?
Nơi đây, hành gỉa:
(1) Khi tâm có tham, biết rõ tâm đang tham. Khi tâm không tham, biết rõ tâm không tham.
(2) Khi tâm có sân, biết rõ tâm đang sân. Khi tâm không sân, biết rõ tâm không sân.
(3) Khi tâm có si, biết rõ tâm đang si. Khi tâm không si, biết rõ tâm không si.
(4) Khi tâm tập trung, biết rõ tâm tập trung. Khi tâm phân tán, biết rõ tâm phân tán.
(5) Khi tâm phóng khoáng, biết rõ tâm phóng khoáng. Khi tâm không phóng khoáng, biết rõ tâm không phóng khoáng.
(6) Khi tâm vượt thượng, biết rõ tâm vượt thượng. Khi tâm vô thượng, biết rõ tâm vô thượng.
(7) Khi tâm tĩnh định, biết rõ tâm tĩnh định. Khi tâm không tĩnh định, biết rõ tâm không tĩnh định.
(8) Khi tâm giải thoát, biết rõ tâm giải thoát. Khi tâm không giải thoát, biết rõ tâm không giải thoát.
Như thế, hành gỉa:
– Sống quán tâm nơi tâm bên trong, hoặc sống quán tâm nơi tâm bên ngoài, hoặc sống quán tâm nơi tâm bên trong lẫn bên ngoài.
– Sống quán những gì sinh khởi nơi tâm, hoặc sống quán những gì ngưng diệt nơi tâm, hoặc sống quán những gì sinh khởi lẫn ngưng diệt nơi tâm.
– Ngay tâm đây, chánh niệm được thiết lập. Cho đến mức độ chỉ còn thuần hiểu biết và thuần chánh niệm, sống độc lập, không dính mắc bất cứ những gì của thế gian. Này chúng Tăng, đó là hành gỉa sống quán tâm như tâm.

(4) Quán Pháp Như Pháp

Như thế nào chúng Tăng, hành gỉa sống quán pháp như pháp?
Nơi đây, hành gỉa:

4.1 Quán pháp qua 5 chướng ngại (triền cái)
Nơi đây, hành gỉa: sống quán pháp qua 5 chướng ngại.
Như thế nào là sống quán pháp nơi pháp qua 5 chướng ngại?
–* Khi nội tại có tham, biết rõ nột tại đang tham. Khi nội tại không tham, biết rõ nội tại đang không tham. Với tham chưa sinh nay phát sinh- biết rõ. Với tham đã sinh khởi nay được đoạn trừ- biết rõ. Với tham đã đoạn trừ sẽ không còn phát sinh về sau- biết rõ.
–* Khi nội tại có sân… buồn ngủ/dã dượi… xao lãng/hối tiếc… nghi ngờ, biết rõ nội tại đang sân… buồn ngủ/dã dượi… xao lãng/hối tiếc… nghi ngờ. Khi nội tại không sân… buồn ngủ/dã dượi… xao lãng/hối tiếc… nghi ngờ, biết rõ nội tại đang không sân… buồn ngủ/dã dượi… xao lãng/hối tiếc… nghi ngờ. Với sân … buồn ngủ/dã dượi… xao lãng/hối tiếc… nghi ngờ chưa sinh nay phát sinh- biết rõ. Với sân … buồn ngủ/dã dượi… xao lãng/hối tiếc… nghi ngờ đã sinh khởi nay được đoạn trừ- biết rõ. Với sân … buồn ngủ/dã dượi… xao lãng/hối tiếc… nghi ngờ đã đoạn trừ sẽ không còn phát sinh về sau- biết rõ.

4.2 Quán pháp qua 5 uẩn (thủ uẩn- dính mắc)
Này nữa chúng Tăng, hành gỉa sống quán pháp qua 5 uẩn.
Như thế nào là sống quán pháp nơi pháp qua 5 uẩn?
Nơi đây, hành giả biết rõ:
– Đây là sắc (sắc thân: đất- nước- gió- lửa), đây là sắc khởi sinh, đây là sắc ngưng diệt.
– Đây là thọ (lạc, khổ, bất khổ bất lạc), đây là thọ khởi sinh, đây là thọ ngưng diệt.
– Đây là tưởng (nhớ về quá khứ- hiện tại- vị lai) , đây là tưởng khởi sinh, đây là tưởng ngưng diệt.
– Đây là hành (ý hành- khẩu hành- thân hành), đây là hành khởi sinh, đây là hành ngưng diệt.
– Đây là thức (nhãn-nhĩ-tỉ-thiệt-thân-ý thức), đây là thức khởi sinh, đây là thức ngưng diệt.

4.3 Quán pháp qua 6 nội-ngoại xứ giác quan (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, dính mắc với sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp)
Này nữa chúng Tăng, hành gỉa sống quán pháp qua 6 nội-ngoại xứ giác quan.
Như thế nào là sống quán pháp qua 6 nội-ngoại xứ?
Hành gỉa biết rõ mắt với sắc, tai với âm thanh, mũi với hương, lưỡi với vị, thân với xúc, tâm với pháp, do đó:
– Biết rõ kiết sử khởi sinh từ sự tương tác giữa các
 đôi cặp này.
– Biết rõ kiết sử chưa sinh nay khởi sinh.
– Biết rõ kiết sử đã sinh khởi
 nay được đoạn trừ.
– Biết rõ kiết sử đã được đoạn trừ sẽ không còn phát sinh về sau.

4.4 Quán pháp qua 7 giác chi – 7 yếu tố dẫn đến giác ngộ
Này nữa chúng Tăng, hành gỉa sống quán pháp qua 7 giác chi.
Như thế nào là sống quán pháp qua 7 giác chi?
–* Khi nội tại có (1) niệm (chánh niệm) giác chi, biết rõ nột tại đang có niệm giác chi. Khi nội tại không có niệm giác chi, biết rõ nội tại đang không có niệm giác chi. Với niệm giác chi chưa sinh nay sinh khởi– biết rõ. Với niệm giác chi đã sinh nay được phát triển-nỗ lực tinh tấn tu tập viên thành- biết rõ.
–* Khi nội tại có (2) pháp trạch (tìm hiểu-học pháp) giác chi … (3) tinh tấn giác chi … (4) hỉ giác chi … (5) tĩnh (tĩnh lặng) giác chi … (6) định giác chi … (7) xả giác chi, biết rõ nột tại đang có pháp trạch giác chi … tinh tấn giác chi … hỉ giác chi … tĩnh giác chi … định giác chi … xả giác chi. Khi nội tại không có pháp trạch giác chi … tinh tấn giác chi … hỉ giác chi … tĩnh giác chi … định giác chi … xả giác chi, biết rõ nột tại đang không có pháp trạch giác chi … tinh tấn giác chi … hỉ giác chi … tĩnh giác chi … định giác chi … xả giác chi.
Với pháp trạch giác chi … tinh tấn giác chi … hỉ giác chi … tĩnh giác chi … định giác chi … xả giác chi chưa sinh nay sinh khởi- biết rõ. Với pháp trạch giác chi … tinh tấn giác chi … hỉ giác chi … tĩnh giác chi … định giác chi … xả giác chi đã sinh nay được phát triển- nỗ lực tinh tấn tu tập viên thành- biết rõ.

4.5 Quán pháp qua 4 Thánh đế (4 Sự thật cao thượng)

Này nữa chúng Tăng, hành gỉa sống quán pháp qua 4 Thánh đế.
Như thế nào là sống quán pháp nơi pháp qua 4 Thánh đế?
Nơi đây hành gỉa:
(1*). Đây là khổ, biết rõ như thật.
(2*). Đây là khổ khởi sinh (tập khởi), biết rõ như thật.
(3*). Đây là khổ ngưng diệt, biết rõ như thật.
(4*). Đây là phương châm- đạo lộ dẫn đến diệt khổ (ThánhBátĐạo), biết rõ như thật.
ThánhBátĐạo (ariya aṭṭhaṅgika magga):
(1) ChánhKiến: khổ-tập-diệt-đạo
(2) ChánhTưDuy: vô tham- vô sân- vô hại
(3) ChánhNgữ: tránh nói lào-nói xấu-nói ác-nói xàm
(4) ChánhNghiệp: sinh sống với những nghề nghiệp thiện lành, tránh sát sanh-trộm cướp-tà dâm-nói láo- rượu thuốc.
(5) ChánhMạng: làm điều lành tránh điều dữ
(6) ChánhTinhTấn: ngăn ác- diệt ác- sinh thiện- tăng trưởng thiện
(7) ChánhNiêm: tu tập BốnNiệmXứ với 4 phép quán Thân-Thọ-Tâm-Pháp
(8) ChánhĐịnh: tu tập 4 sắc thiền (NhấtThiền- NhịThiền-TamThiền-TứThiền) như ở phần cuối Kinh ThânHànhNiệm ThựcHành MN.119.

*Nhất thiền :
Hành gỉa ly dục- ly bất thiện pháp, với tầm với tứ (hơi thở- hít vào thở ra) cùng nguồn hỷ lạc từ ly dục, nhập trú trong Nhất thiền. Cảm nhận nguồn hỉ lạc từ ly dục thấm nhập- lan tỏa- tràn đầy khắp châu thân.
Ví như có người nhồi bột giặt với nước, thấm nhuấn với nước, trộn đều với nước, lấp đầy, lan tỏa với nước. Tương tự, hành giả thấm nhuần, tẩm ướt, lấp đầy, lan tỏa khắp thân thể với niềm hỷ và lạc từ ly dục qua Nhất thiền chánh định.
*Nhị thiền:
Hành giả từ bỏ tầm và tứ, nội tĩnh- nhất tâm, không tầm không tứ, với nguồn hỷ lạc từ thiền định thấm nhập- lan tỏa- tràn đầy khắp châu thân.
Giả sử có một hồ nước trong xanh được cung cấp từ giếng suối phun từ bên trong, nước trong mát phun ra thấm nhuần, trộn đều, lấp đầy, lan tỏa khắp hồ nước. Cũng như vậy, hành giả thấm nhuần, tẩm ướt, lấp đầy, lan tỏa khắp thân thể với nguòn hỷ và lạc từ thiền định qua Nhị thiền chánh định.
*Tam thiền:
Hành giả từ bỏ hỉ, sống buông xả, chánh niệm tỉnh giác, nguồn an lạc được cảm thọ qua thân như Thánh nhân tuyên bố “Sống buông xả- chánh niệm- an lạc”, nhập trú trong Tam thiền. Nguồn an lạc thấm nhập- lan tỏa- tràn đầy khắp châu thân.
Ví như các loại cây sen súng sinh sống trong đầm nước tươi mát, từ rễ đến ngọn đều được thấm nhuần, tẩm uớt, lấp đầy, lan tỏa với nước tươi mát. Tương tự, hành giả thấm nhuần, tẩm ướt, lấp đầy, lan tỏa khắp thân thể với nguồn an lạc (không còn hỳ) qua Tam thiền chánh định.
*Tứ thiền:
Hành giả từ bỏ lạc- từ bỏ khổ, cùng với đoạn diệt những vui buồn từ trước, dứt khổ- dứt lạc, buông xả- chánh niệm- thanh tịnh, trú nhập trong Tứ thiền. Nguồn tâm trong sáng-thuần khiết-thanh tịnh thấm nhập- lan tỏa- tràn đầy khắp châu thân.
Giả sử như có người trùm khắp- che kín thân từ đầu đến chân mốt tấm vải trắng. Tương tự như vậy, hành giả thấm nhuần- lan tỏa- tràn đầy khắp thân thể với nguồn tâm trong sáng- thuần khiết- thanh tịnh qua Tứ thiền chánh định.

Như thế, hành gỉa:
– Sống quán pháp bên trong, hoặc sống quán pháp bên ngoài, hoặc sống quán pháp bên trong lẫn bên ngoài.
– Sống quán những gì sinh khởi nơi pháp, hoặc sống quán những gì ngưng diệt nơi pháp, hoặc sống quán những gì sinh khởi lẫn ngưng diệt nơi pháp.
– Ngay pháp đây, chánh niệm được thiết lập. Cho đến mức độ chỉ còn thuần trí tuê và thuần chánh niệm, sống độc lập, không dính mắc bất cứ những gì của thế gian. Này chúng Tăng, đó là hành gỉa sống quán pháp như pháp.

PHẦN THÀNH QỦA

–* Này chúng tăng, hành gỉa nào thực hành BốnNiệmXứ theo phương thức này trong vòng 7 năm, có thể kỳ vọng chứng đạt một trong hai quả vị: hoặc là (1) toàn tri – qủa vị ALaHán (đạt niết bàn giải thoát ngay trong đời sống hiện tại, ra khỏi luân hồi sinh tử), (2) hoặc nếu còn sót lại chút dính mắc (upādisese) sẽ chứng qủa vị BấtLai- ANaHàm (Anāgāmī- được hóa sanh về cõi Tịnh Cư Thiên- Suddhavāsa Deva, hưởng thọ mạng rất bền lâu trong nhiều ngàn vĩnh kiếp (kappa), nhan sắc tốt tươi xinh đẹp, với nhiều công đức, tiếp tục con đường ALaHán qủa).

–* không cần phải mất 7 năm, hành gỉa nào thực hành BốnNiệmXứ theo phương thức này trong vòng 6 năm, hoặc 5 năm, 4 năm, 3 năm, 2 năm, 1 năm …

–* không cần phải mất 1 năm, hành gỉa nào thực hành BốnNiệmXứ theo phương thức này trong vòng 7 tháng…

–* không cần phải mất 7 tháng, hành gỉa nào thực hành Bốn Niệm Xứ theo phương thức này trong vòng 6 tháng, hoặc 5 tháng, 4 tháng, 3 tháng, 2 tháng, 1 tháng, nửa tháng …

–* không cần phải mất nửa tháng, hành gỉa nào thực hành BốnNiệmXứ theo phương thức này chỉ trong vòng 7 ngày, có thể kỳ vọng chứng đạt một trong hai quả vị: hoặc là (1) toàn tri- qủa vị ALaHán (đạt niết bàn giải thoát ngay trong đời sống hiện tại, ra khỏi luân hồi sinh tử), (2) hoặc nếu còn sót lại chút dính mắc sẽ chứng qủa vị BấtLai- ANaHàm (Anāgāmī- được hóa sanh về cõi Tịnh Cư Thiên hưởng thọ mạng rất bền lâu trong nhiều ngàn vĩnh kiếp (kappa), nhan sắc tốt tươi xinh đẹp, với nhiều công đức, tiếp tục con đường ALaHán qủa).

Đây là những điều Đức Phật đã giảng thuyết. Chúng Tăng hoan hỷ, tri ân lời dạy của Ngài