Não bộ hình thành trí nhớ thông qua thể hiện các chức năng:
tiếp nhận thông tin từ bên ngoài (ánh sáng, nhiệt độ, lời phê bình của người
khác…) hoặc từ bên trong (cảm giác của các nội tạng, áp suất máu, sự tự dày vò
bản thân…); xử lý thông tin qua quá trình phân tích, tổng hợp, đánh giá; quyết
định hành động bằng cách lập chương trình, kiểm tra và điều hoà hành động đáp ứng.
Nếu sự đáp ứng là khả năng lưu giữ thông tin từ môi trường bên ngoài tác động
vào cơ thể hoặc những phản ứng xảy ra trong cơ thể và khi cần sẽ tái hiện, đó
chính là trí nhớ. Để tiếp nhận, xử lý các thông tin và đáp ứng, não bộ nhờ đến
hoạt động của hàng trăm tỉ tế bào thần kinh. Tế bào thần kinh là đơn vị chức
năng của não bộ có nhiệm vụ kích thích, phát và dẫn truyền các xung động thần
kinh (thực chất đây là thông tin được mã hoá thành điện thế). Các xung động lan
truyền giữa các tế bào thần kinh thông qua chất dẫn truyền. Người ta đã xác định
có khoảng 40 chất dẫn truyền thông tin trong não bộ, góp phần tạo ra và lưu trữ
trí nhớ (được cho là ở vùng amygdala và hippocampus trên não). Một số chất dẫn
truyền thần kinh có tác dụng kích thích như acetylcholin, adrenalin,
noradrenalin, glutamat… đặc biệt acetylcholin được xem là chất tham gia chủ yếu
vào hoạt động trí nhớ.
Làm chủ trí nhớ
Đến đây xin trở lại vấn đề tại sao chúng ta quá khó để
“chánh niệm”? Tại sao ta cứ nhớ lại những việc xưa cũ gây phiền não?
Người ta phân trí nhớ ra làm hai loại: trí nhớ dương tính và
trí nhớ âm tính. Trí nhớ dương tính có thể lập lại tư duy cũ một cách dễ dàng.
Thí dụ như ký ức về đau đớn hay ký ức về sân si, phiền muộn rất dễ là trí nhớ
dương tính. Còn ký ức âm tính là loại mà não bộ bỏ qua không lưu giữ các thông
tin được xem là không quan trọng, không ảnh hưởng đến cái “tôi” là chủ của não
bộ đó. Nếu trí não biết vận dụng, chuyển hoá những thông tin không cần thiết,
những tư duy hại mình hại người thành trí nhớ âm tính thì quá tốt. Chánh niệm
chính là thực hiện những việc đó, xem có vẻ đơn giản nhưng cực kỳ khó khăn do bất
cứ chất sinh học nào cũng có đời sống của nó. Chất dẫn truyền thần kinh sống cuộc
đời ngắn ngủi, do bên cạnh nó có chất phân huỷ gọi là enzym (như acetylcholin bị
phân huỷ bởi enzym acetylcholin esterase). Kế tiếp, sự tổng hợp các chất dẫn
truyền thần kinh tuỳ vào điều kiện số lượng, có thể rất nhỏ nhưng cũng có thể cực
lớn. Các phân tử dẫn truyền thần kinh vừa chết đi sẽ được thay thế bằng gấp nhiều
lần số phân tử mới để kéo dài trí nhớ dương tính. Hơn nữa, hệ thần kinh có thể
làm mạnh thêm ký ức bằng cách tổng hợp thêm các thụ thể là nơi gắn chất dẫn
truyền thần kinh.
Cái “tôi” luôn thôi thúc não bộ lúc nào cũng cảm thấy sợ hãi
từ trong ý thức và vô thức, luôn tìm đến sự an toàn bằng hành vi vô minh, lầm lạc,
đầy ảo tưởng là tạo ra trí nhớ dương tính không cần thiết.
Tại sao trí não cứ
luôn tạo trí nhớ dương tính không cần thiết và không thể chuyển hoá những suy
tưởng tiêu cực thành trí nhớ âm tính để không lưu trữ lâu dài? Con người đã trải
qua tiến hoá hàng vạn năm để có bộ óc phát triển như ngày nay. Bên cạnh tâm thức
phát triển vẫn còn tồn tại bản năng sinh tồn của người vượn lúc nào cũng tìm
cách duy trì và bảo vệ cái “tôi” hoang dã. Cái “tôi” luôn thôi thúc não bộ lúc
nào cũng cảm thấy sợ hãi từ trong ý thức và vô thức, luôn tìm đến sự an toàn bằng
hành vi vô minh, lầm lạc, đầy ảo tưởng là tạo ra trí nhớ dương tính không cần
thiết. Chánh niệm khó chính là vậy.
Trong dược học, người ta đã tìm ra các thuốc giúp trấn áp
trí nhớ dương tính. Như các thuốc an thần giải lo (anxiolytics) hay các thuốc
có nguồn gốc ma tuý giúp người ta tạm thời quên đi những gì làm cho lo nghĩ, khổ
sở. Khổ nỗi, hết tác dụng thuốc thì tình trạng khốn khó lại tiếp diễn và tai hại
hơn, dùng các thuốc này lâu sẽ bị nô lệ vào thuốc (nghiện). Bên cạnh dùng thuốc
như dùng dao hai lưỡi, vẫn còn có cách mà con người áp dụng từ xưa để đạt được
chánh niệm: thiền định. Kỹ thuật chẩn đoán MRI tiên tiến đã chứng minh thiền định
giúp con người chế ngự sự đau đớn hoặc có trạng thái an nhiên tự tại với hình ảnh
thay đổi rõ ràng những vùng trên não bộ.
Chánh niệm khó chỉ vì con người không biết “Đối cảnh vô tâm
mạo vấn thiền” (vô tâm trước cảnh, biết khi nào thiền – Trần Nhân Tông) đó
thôi. Trong cuộc sống dễ gây phiền não, xung đột nội tâm, hãy thử thiền định để
làm chủ trí nhớ dương tính của não bộ.
PGS.TS.DS Nguyễn Hữu Đức