Chuyện kể rằng trên cây cầu trong ngôi thành nọ có một người
hành khất. Ông ta không biết kéo đàn, cũng không biết hát, thậm chí còn chẳng
biết viết ra cảnh ngộ bi thảm của mình lên giấy, rải xuống đất để mong nhận sự
thương xót của khách qua lại.
Mỗi ngày, ông chỉ biết ngồi chồm hỗm dựa vào thành cầu, co
ro rúc mặt vào trong đầu gối, bên cạnh đôi chân gày gò để một cái bát mẻ cũ kỹ.
May mà người qua lại chiếc cầu rất đông, thi thoảng cũng có người đem vài đồng
bạc lẻ vứt vào trong bát.
Khi đêm đến, người hành khất sẽ trở về chỗ trú ngụ của ông –
một cái vườn rau ở ngoại ô, bị bỏ hoang đã lâu. Một hàng rào xiêu vẹo bao lấy
vườn rau bỏ hoang, bên trong có một túp lều nát, người hành khất già đã lánh
rét ở đó được mấy mùa đông lạnh giá. Trong vườn rau còn có một miệng giếng khô,
bên giếng có một gốc cây già.
Gió mùa đông bắc ùa về, thành phố đón trận tuyết đầu tiên của
mùa đông. Người trên cầu thưa thớt hẳn đi, lão hành khất đang định sẽ về nghỉ,
bỗng từ đâu chạy tới một con chó nhỏ. Con chó bị lạnh tới nỗi run lên từng chập,
trõ mõm hít hít cái bát sứt của người ăn mày, thì ra là vì đêm hôm trước ông đã
dùng cái bát này để thức ăn. Lão hành khất trong lòng thương xót, liền lấy
trong người ra một chiếc bánh bao, khẽ khàng bỏ vào trong bát.
Con chó nhỏ ngước lên nhìn ông hồi lâu, như thể cảm động lắm,
rồi gục mặt vào bát ăn lấy ăn để.
Người ăn mày mang con chó về “nhà” của mình, từ đó người chó
quấn quít không rời. Con chó rất thông minh, hễ đói là biết ngoạm cái bát chạy
nhắng quanh chủ đòi ăn. Những người đi qua nhìn thấy thế rất ngạc nhiên thích
thú, liền thi nhau ném tiền vào trong bát.
Người ăn mày phát hiện ra đây là cơ hội lớn, liền huấn luyện
cho con chó.
Qua một thời gian, nó đã biết đứng bằng hai chân sau, ngoạm
bát xin ăn nhảy tới nhảy lui trước mặt những người qua đường. Vậy là người ăn
mày lại càng thu được nhiều tiền thêm.
Người ăn mày bỗng dưng “ phát tài”, liền lấy tiền đi đánh xổ
số. Thật là nằm mơ cũng không tưởng được vận số ông lại tốt đến vậy, không lâu sau
ông trúng giải độc đắc.
Cứ như là số mệnh vậy. Người ăn mày mua lại vườn rau bỏ
hoang, rồi từ mảnh đất đó xây lên một ngôi nhà lộng lẫy, nhưng ông vẫn giữ lại
túp lều nát, miệng giếng khô cùng gốc cây già và nếp hàng rào lưa thưa ngày nào
ở vườn sau khu nhà mình.
Trong phòng của người ăn mày bày biện đầy những đồ xa xỉ,
ông bỗng chốc mê mẩn việc sưu tầm đồ cổ, thích cung phụng những mỹ nhân chân
dài, lại càng thích ánh mắt kinh ngạc, ngưỡng mộ của mọi người khi ông rút
trong túi ra cả xập tiền lớn.
“ Quý ngài ăn mày” bắt đầu đi gặp gỡ giới thượng lưu, dĩ
nhiên lúc nào ông cũng mang theo con chó nhỏ của mình. Các bà mệnh phụ ra sức ủng
hộ nhiệt liệt quí ông ăn chơi mạnh tay này, và dĩ nhiên chẳng ai biết xuất thân
ông ra sao.
Điều duy nhất làm cho “ quý ngài ăn mày” cảm thấy khó xử
chính là chú chó nhỏ, bởi những người thượng lưu khác đều nuôi những con chó giống
quý, thuần chủng kia!
Cho tới một hôm, con chó con bướng bỉnh của ông cắn rách tai
một con chó cái giống quí, ngay giữa bữa tiệc. Chủ nhân con chó nổi trận lôi
đình, làm cho ngài ăn mày cảm thấy lòng tự tôn của mình bị tổn thương nghiêm trọng.
Về tới nhà, ông lạnh lùng mang con chó ra vườn sau, cạnh cái
giếng cũ. Sau đó cho nó vào một chiếc lồng gỗ, buộc vào một sợi dây thừng dài
và thả xuống cái giếng khô.
Người ăn mày quyết tâm giết chết con chó, giống như tiêu diệt
hoàn toàn cái quá khứ khốn khổ vẫn ám ảnh ông ta.
Từ đó, bên cạnh người hành khất thiếu đi con chó nhỏ trung
thành, ông ta có thể thoải mái một mình đi gặp các cô em phục vụ dễ thương ở
quán rượu, hoặc đi dự những bữa tiệc thượng lưu xa hoa.
May mà dù thế nào ông cũng không quên mỗi ngày thả xuống giếng
vài miếng thịt, vì tiếng sủa của con chó cho ông biết rằng người bạn ngày khốn
khó xưa kia vẫn còn sống.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, người hành khất ngược lại cảm
thấy không hề vui vẻ, chó nhỏ đi rồi, bạn bè quý tộc của ông ta cũng không hề
nhiều hơn, vả lại có một hôm, nhằm lúc ông uống rượu say lướt khướt, đã buột miệng
để lộ ra cái thân phận thấp hèn ngày xưa.
Lũ người kia bỗng chốc chế nhạo và quay mặt lạnh nhạt với
ông ta. Người ăn mày cuối cùng hiểu ra rằng, trên đời này chỉ có chú chó nhỏ đã
từng trải qua hoạn nạn với mình mới là người bạn chân chính nhất. Thế mà ông nỡ
vứt nó xuống dưới giếng khô.
Người ăn mày chạy thật mau đến bên giếng, thả cái cũi gỗ xuống.
Nhưng chó con chỉ đi quanh cái lồng gỗ mà không dám nhảy vào trong.
Người ăn mày chạy đi tìm một cái dây to, một đầu cột vào gốc
cây, tự mình trèo xuống đáy giếng cứu chó con. Giếng rất sâu, nhưng ông không sợ
hãi chút nào. Đáy giếng tối om om, lại bốc lên mùi thum thủm, ông vội cắp con
chó rồi trèo lên. Chó con chẳng hề oán trách chủ mình, vui mừng liếm mặt người
chủ lâu ngày mới gặp lại.
Bác sỹ giỏi nhất trong thành cũng không thể trị nổi bệnh của
chó nhỏ. Người hành khất vì muốn bù đắp lỗi lầm của mình, mỗi ngày đều cho nó đồ
ăn ngon nhất, đi đâu cũng dắt theo.
Con chó nhỏ vui lắm, lúc lắc cái đuôi nhỏ, nhưng đầu nó chỉ
có thể quay nhìn đằng sau, đôi mắt lúc nào cũng ngước nhìn trời cao.
Người ăn mày mang chó nhỏ đi khắp mọi ngõ ngách trong thành
phố, ông cầm tiền bỏ vào tân tay những người hành khất khác. Thấy những người ấy
cảm kích cầm tiền của mình, ông cảm thấy thật là mãn nguyện.
Rồi ông bắt đầu có dự định mới, ông báo cho những người ăn
mày trong cả thành tới nhà ông lĩnh tiền.
Tin tức truyền đi rất nhanh, đội ngũ ăn mày tới lĩnh tiền
càng lúc càng đông. Những người được tiền rồi dùng mọi lời lẽ hoa mỹ nhất trên
đời để tán tụng ông, khiến ông hưng phấn khôn tả.
Đài truyền hình tới, bản tin buổi tối cũng có phóng sự nói về
ông.
Ngày thứ hai, mọi người như nước thủy triều xông tới nhà
ông, có những người chẳng phải ăn mày cũng gia nhập vào đội quân lĩnh tiền.
Người hành khất cứ chìm đắm trong cảm giác vinh dự vui sướng,
ngày nào cũng bận rộn chạy qua chạy lại giữa ngân hàng và nhà mình.
Cho đến một hôm, ngân hàng báo cho ông biết tiền trong tài
khoản đã hết, ông đành phải nói với hàng dài những người xếp hàng rằng : Hết tiền
để phát mất rồi!
Đám người xếp hàng lập tức biến thành một đoàn hỗn loạn.
Chúng bắt đầu mắng chửi : “ Đồ ti tiện!” “Sao đến lượt tao lại
không phát nữa!” “ Dạy cho nó một bài học!”.
Bọn chúng xông vào nhà ông, ném gạch tới tấp làm vỡ hết cửa
sổ. Ông chốt cửa nhà lại, nhưng cũng sắp bị đám người xô đổ đến nơi rồi.
Sợ quá, ông chạy ra vườn sau. Trông thấy sợi dây thừng còn
buộc bên miệng giếng, ông vội vã leo xuống. Lúc sắp xuống tới đáy giếng, bất ngờ
đầu dây thừng buộc ở miệng giếng bị rơi ra, người hành khất cùng sợi dây vẫn nắm
chắc trong tay rơi xuống đáy giếng tối om.
Cảnh sát mất rất nhiều công sức mới giải tán được đám người
hung hãn, nhưng ngôi nhà gần như đã biến thành một bãi hoang tàn, những thứ có
thể lấy được, người ta đều cướp đi hết.
Thời gian mỗi ngày một qua đi, người ăn mày chỉ đành trú lại
ở đáy giếng vừa tối vừa lạnh, ông ta ngóc mặt lên gào với trời, với trăng, chẳng
ai nghe thấy.
Chó con mỗi ngày chạy đi khắp nơi kiếm thức ăn ném xuống giếng,
lúc thì là chiếc bánh bao đã mốc meo, khi thì miếng xương đã biến mùi. Chó con
kiếm thức ăn rất khó khăn, vì đầu nó chỉ có thể nhìn ngược đằng sau.
Không làm thế nào được, nó chỉ biết nằm dài ra mà hít hà dưới
đất, vớ được miếng thịt hỏng hay gì đó là ngóc dậy chạy về miệng giếng khô
ngay.
Có một lần, chó con còn vứt xuống cả xác một con mèo chết.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, chó con thậm chí còn không
để dành thức ăn cho bản thân, người nó gầy chỉ còn da bọc xương, thế rồi nó yếu
đến mức sức lực để đi cũng không còn.
Người ăn mày ngày nào cũng gào thét khản cả cổ, chẳng có ai
tới cứu ông ta.
Vài ngày liên tiếp chó con không thả đồ ăn xuống nữa, người
ăn mày không biết con chó đã xảy chuyện gì. Ông đau đáu nhìn lên mảnh trời hình
tròn nhỏ bé trên miệng giếng, biết rằng mình sắp chết.
Một buổi sớm, những tiếng người nói chuyện rầm rì trên miệng
giếng đánh thức người hành khất khỏi cơn mê sảng, ông thu hết chút sức tàn hô
lên một tiếng.
Ông được mọi người dùng dây thừng đưa lên, ánh sáng mặt trời
chói lọi làm ông không mở nổi mắt. Mọi người săm soi người đàn ông lem luốc hôi
thối trước mặt :
“ Nếu không phải thấy có xác con chó con chết ở miệng giếng
này, thì chẳng có ai nghe được tiếng kêu của ông.”
Người ăn mày nhìn cái xác gầy guộc của chó nhỏ, nước mắt rơi
ướt cả bộ lông dính đầy đất bẩn của nó.