Đạo Phật gọi các phẩm chất ấy là sức mạnh, ngọc báu hay tài sản vốn có của riêng mỗi cá nhân; và khuyến khích mọi người vận dụng các vốn quý ấy để xây dựng cuộc sống an lạc . Theo quan niệm của đạo Phật , khả năng để con người thiết lập hạnh phúc có thể được tìm thấy trong mỗi người , trong cách người ấy xử sự với chính mình cũng như với người khác . Đức Phật cho rằng chính hành động có chủ ý ( nghiệp ) hay thái độ tâm thức của mỗi cá nhân quyết định hạnh phúc hay khổ đau của người ấy .
Thế nào là thái độ tâm thức quyết định hạnh phúc hay khổ đau
của mỗi người ? có thể nào hạnh phúc hay khổ đau đều bắt nguồn từ tâm thức con
người ? Quả thực như vậy. Thái độ tâm thức của mỗi cá nhân nói rõ khuynh hướng
hạnh phúc hay khổ đau của người ấy. Đạo Phật nói đến hai hình thái vận hành của
thức dẫn đến hai khuynh hướng khác nhau của đời sống con người. Thứ nhất là tàm
quý (hirottappa) và thứ hai là không tàm quý (ahirottappa ) . Dạng tâm thức thứ
nhất khơi nguồn cho nếp sống chân chánh an lạc và loại thứ hai mở lối cho đời sống
bất chánh khổ đau . Đức Phật lưu ý chúng ta về hệ quả của hai hình thái tâm thức
này :
“ Hai pháp này , này các Tỳ-kheo , là pháp đen. Thế nào là
hai ? Không tàm và không quý . Hai pháp này , này các Tỳ-kheo là pháp trắng .
Thế nào là hai ? Tàm và quý.
Hai pháp trắng này , này các Tỳ-kheo , che chở cho thế giới
. Thế nào là hai ? Tàm và quý . Nếu hai pháp trắng này không che chở cho thế giới
, thời không thể chỉ được đây là mẹ hay là em , là chị của mẹ , hay đây là vợ của
anh , hay em của mẹ , hay đây là vợ của thầy , hay đây là vợ của các vị tôn trưởng
. Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê , loài gà vịt , loài heo
, loài chó , loài dã can . Vì rằng , này các Tỳ-kheo , có hai pháp trắng này
che chở cho thề giới , nên mới có thể chỉ đây là mẹ , hay đây là chị em của mẹ
, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ , hay đây là vợ của thầy , hay đây là vợ
của các vị tôn trưởng”(1)
Lời Phật dạy cho chúng ta biết rằng tàm quý chính là nền tảng
của đạo đức của lẻ sống hiểu biết và tôn trọng các giá trị thiêng liêng của sự
sống hay những gì ta gọi là văn hóa . Nó được xem là pháp che chở cho thế giới
, tức điều kiện giúp cho cuộc đời được yên ổn , không rối loạn , vì tàm quý là
tâm thức phảng kháng cái xấu ác , phi đạo đức , khiến cho đời sống vận hành có
trật tự , có đạo đức , mang tính quy củ , Trái lại không tàm quý là nguyên nhân
của mọi rối loạn và suy đồi về đạo đức , về nhân tính và văn hóa ., từ đây ta
có thể khẳng định rằng sự xuống cấp của đạo đức chính là sự xuống cấp của tâm
thức và do vậy để phục hồi và phát triển đạo đức thì không gì khác là phục hồi
và phát triển tâm thức con người . Đạo Phật thấy rõ tiềm năng ấy ở trong mỗi cá
nhân . Đó là sự nuôi dưỡng và phát huy tâm tàm quý trong chính mỗi con người .
Theo đạo Phật , tàm quý là tâm thức biết xấu hổ và ghê sợ đối
với thân làm ác , miệng nói ác , ý nghĩ ác hay tâm lý xấu hổ và sợ hãi đối với
mọi điều xấu ác , bất thiện :
“Vị này có lòng tàm , tự xấu hổ vì thân ác hạnh , khẩu ác hạnh
,ý ác hạnh . Tự xấu hổ vì thành tựu ác ,
bất thiện pháp. Vị này có lòng quý tự sợ hãi vì tâm ác hạnh , khẩu ác hạnh , tự
sợ hãi vì thành tựu ác , bất thiện pháp”(2 ). Đây là hình thái tâm thức tích cực
, biết phân biệt thiện ác , có nhận thức rõ ràng về nhân quả thiện ác và do đó
có thái độ dứt khoát đối với lẽ thiện ác . Tàm ( hiri ) là cảm giác hổ với lòng
mình hay tâm lý ăn năn hối tiếc trong trường hợp lỡ vi phạm điều xấu ác , có
công năng ngăn ngừa điều sai trái , bất thiện , những điều khiến lương tâm ân hận
hay hổ thẹn . Quý ( ottappa ) là tâm lý thẹn với người hay cảm thức lo ngại người
khác sẽ phiền muộn quở trách mình về việc vi phạm điều xấu ác . có chức năng né
tránh các điều ác , bất thiện , những điều khiến người khác phiền lòng chê
trách . Do chức năng đặc biệt của nó .đạo Phật xem tàm quý là nhân trực tiếp của
giác hạnh ( sìla )vì nó là tâm thức phản kháng và xa lánh cái ác , có công
mnang8 gợi mở và thúc đẩy nếp sống đạo đức hiền thiện . Luận thanh tịnh đạo (
Visuddhimagga ) nói rằng khi tàm quý có mặt thì giới đức phát sinh và tồn tại ;
còn khi tàm quý vắng mặt thì giới đức cũng không phát sinh cũng không tồn tại .
Như vậy , tàm quý là cảm thức thấy rõ bản chất xấu xa nguy hại
của cái ác , sự phản ứng của tâm thức chống lại cái ác có công năng thôi thúc
con người rời xa cái ác . Dạng tâm thức này được nuôi dưỡng và phát triển sẽ
khiến cho con người trở nên chơn chánh , hiền thiện , không bao giờ tự dối lòng
, biết tôn trọng cảm thức của người khác , có khả năng ngăn tránh mọi hành vi
ác , bất thiện thuộc ý nghĩ lời nói và việc làm . Đây là hình thái tâm thức hiền
thiện , đáng được nuôi dưỡng và phát huy vì nó nuôi lớn thái độ tự trọng và tôn
trọng người khác , được thể hiện qua cảm thức biết xấu hổ và sợ hãi đối với sự
quyết tâm không vi phạm điều sai trái xấu ác gây thương tổn cho mình và cho người
khác . Đức Phật nói cho chúng ta biết cách thức nuôi dưỡng tâm tàm quý và nêu
rõ diễn tiến tốt đẹp của lòng tâm thức này :
“ Ở đây , này các Tỳ-kheo , có hạng người suy xét : ‘nếu
thân ta làm ác , lời ta nói ác ý ta nghĩ ác thời tự ngã có thể trách ta về
phương diện giới đức . “ Sao lại làm
nghiệp ấy ?” Người ấy do sợ hãi tự trách , đoạn tận thân làm ác , tu tập thân
làm lành , đoạn tận ý nghĩ ác , tu tập ý nghĩ lành , sống tự ngã trong sạch . Ở
đây , này các Tỳ-kheo , có hạng người suy xét : ‘Nếu thân ta làm ác , lời ta
nói ác , ý ta nghĩ ác , thời các người khác có thể trách ta về phương diện giới
đức : “ Sao ta lại làm nghiệp ấy?”. Người ấy do sợ hãi người khác trách , đoạn
tận thân làm ác , tu tập thân làm lành ; đoạn tận lời nói ác , tu tập lời nói
lành ; đoạn tận ý nghĩ ác , tu tập ý nghĩ lành ; sống tự ngã trong sạch”(3).
Nhìn chung , tàm quý hay tâm lý xấu hổ và sợ hãi đối với
thân làm ác , miệng nói ác .ý nghĩ ác là tâm thức tích cực hiền thiện đưa đến
nhận thức đúng đắn , suy tư chính chắn và cách hành xử tốt đẹp , lợi mình , lợi
người . Nó là tâm thức khơi nguồn cho nếp sống hiểu biết và hành xử mang tính
nhân bản , có tinh thần trách nhiệm đối với cuộc sống thiện lương của mọi người
. Nó là sức mạnh tự nội , có công năng nhận diện và ngăn chặn cái xấu ác ở ngay
trong tâm thức . Chính vì thế mà đạo Phật rất quan tâm khuyến khích việc nuôi
dưỡng và phát huy tâm tàm quý , xem đó nguồn lực thiết yếu mở đường cho tiến
trình giải thoát giác ngộ của con người hay nếp sống phát triển giới đức , tâm
đức , tuệ đức hướng đến mục đích hoàn thiện nhân tính , chứng đắc giải thoát an
lạc cho mỗi cá nhân . Những lời Phật dạy sau đây cho thấy ở đâu có tàm quý thì ở
đó có giới đức , có tâm đức , có tuệ đức , có giải thoát và giải thoát tri kiến
đức . Nói ngắn hơn , ở đâu có tàm quý thì ở đó có đạo đức và hạnh phúc .
“ Khi tàm quý có mặt , này các Tỳ-kheo , với người đầy đủ
tàm quý , chế ngự các căn đi đến đầy đủ . Khi chế ngự các căn có mặt , với người
đầy đủ chế ngự các căn , giới đức đi đến đầy đủ . Khi giới đức có mặt với người
đầy đủ giới đức , chánh định đi đến đầy đủ . Khi chánh định có mặt với người
chánh định , tri kiến như thật đi đến đầy đủ . Khi tri kiến như thật có mặt , với
người đầy đủ tri kiến như thật , nhàm chán ly tham đến đầy đủ . Khi nhàm chán
ly tham có mặt , đồi với người đầy đủ nhàm chán ly tham , giải thoát đi đến đầy
đủ . Khi giải thoát có mặt , với người đầy đủ giải thoát , giải thoát tri kiến
đi đến đầy đủ . Ví như , này các Tỳ-kheo , một cây có cành và lá , các mầm non
của cây đi đến thành mãn, vỏ trong , lõi cây , giác cây đi đến thành mãn . Cũng
vậy , này các Tỳ-kheo , khi tàm quý có mặt, với người đầy đủ tàm quý …giải
thoát tri kiến đi đến đầy đủ”. (4.
Chú Thích
1- Kinh Hai loại tội , Tăng Chi Bộ
2- Kinh Hữu học ,
Trung Bộ
3- Kinh Tự trách ,
Tăng Chi Bộ
4- Kinh Xấu hổ ,
Tăng Chi Bộ
TÂM TỊNH ( Tạp
Chí Văn Hoá Phật Giáo 132 )