Giáo lý Tứ diệu đế mà Đức Phật tuyên thuyết cho năm anh em A
Nhã Kiều Trần Như nghe tại Lộc Uyển là giáo lý căn bản nhằm mở ra nhận thức sâu
sắc về sự thật bản chất của đời sống, gọi là Khổ đế; về nguyên nhân dẫn đến những
khổ đau mà con người phải chịu, không ai có thể tránh khỏi, gọi là Tập đế; chỉ
ra nguồn an lạc, hạnh phúc chân thật, vững bền, không còn bóng dáng của khổ
đau, gọi là Diệt đế; và con đường đạt được nguồn chân hạnh phúc đó, gọi là Đạo
đế. Phần thực hành căn bản của Tứ diệu đế chính là Đạo đế, mà chủ yếu là Bát
chánh đạo; trong đó, hai chi phần Chánh kiến và Chánh tư duy mang lại nhận thức
sâu sắc, thấu đáo về bản chất đời sống, quan niệm sống đúng đắn, tích cực làm
tư tưởng chủ đạo cho tư duy và hành động; ba chi phần tiếp theo gồm Chánh ngữ,
Chánh nghiệp và Chánh mạng giúp xây dựng những kỹ năng sống và làm việc được
hình thành trên cơ sở hiểu biết đúng đắn và kinh nghiệm tu tập bao gồm việc rèn
luyện, trau giồi, thực hành các thiện pháp qua suy nghĩ, lời nói và hành động;
chi phần Chánh tinh tấn giúp hình thành tinh thần năng động và tích cực trong đời
sống; và hai chi phần sau cùng, Chánh niệm, và Chánh định giúp mở rộng khả năng
làm chủ bản thân, xác định cảm xúc, tình cảm, tâm lý, kiểm soát chặt chẽ tư
duy, ngôn ngữ, hành động.
Cũng cùng một nội dung với Bát chánh đạo, giáo lý Tam vô lậu
học của Phật giáo cũng dạy về những giá trị đạo đức giúp con người hoàn thiện
và nâng cao phẩm cách nhờ giữ Giới, giúp làm chủ cảm xúc, tình cảm, tâm lý nhờ
tu Định; sau cùng, có khả năng thích nghi, ứng phó và giải quyết các vấn đề cá
nhân và xã hội một cách có hiệu quả trên cơ sở duyên sinh, nhân quả nhờ thành tựu
Tuệ. Ba môn học vô lậu này chẳng những giúp con người kiện toàn nhân cách, đạt
được những giá trị chân, thiện, mỹ trong đời sống mà còn đưa hành giả đạt tới bậc
thánh thiện, có đời sống vượt lên trên đời sống tầm thường của thế tục; vì thế
mà được gọi là ba môn học vô lậu – không còn phiền não nhiễm ô đưa đến sự sa đọa
vào con đường khổ.
Về phương diện hướng dẫn con người bước vào sinh hoạt tập thể,
sống hòa nhập với tổ chức, cộng đồng, xã hội, phải kể đến giáo lý Lục hòa và Tứ
nhiếp pháp. Lục hòa là sáu nguyên tắc sống hòa hợp mà Đức Phật dạy hàng xuất
gia nhằm xây dựng đời sống tu hành hòa mục, tịnh lạc, giúp giáo đoàn tăng thịnh,
nhưng Lục hòa cũng mang lại lợi ích lớn cho bất cứ đời sống tập thể nào biết vận
dụng thực thi nó. Lục hòa gồm có: Thân hòa đồng trú (sống chung hòa hợp, tôn trọng
lẫn nhau trên tinh thần bình đẳng, tương thân tương ái, không phân biệt đối xử,
không thành kiến, tị hiềm), khẩu hòa vô tranh (lời nói từ ái, thuận hòa không
tranh đấu hơn thua, không xúc phạm, không làm tổn thương người khác), ý hòa đồng
duyệt (ý hòa cùng vui-biết trao đổi, hội ý, ý nghĩ hòa hợp không chống trái,
không tranh chấp hơn thua, không thành kiến, oán thù), giới hòa đồng tu (cùng
nhau thọ trì giới pháp, giữ gìn những chuẩn mực đạo đức, thực hành chánh hạnh,
cùng giúp đỡ nhau trong việc trau giồi phẩm cách, đức hạnh, hoàn thiện bản
thân), kiến hòa đồng giải (cùng nhau hướng đến chánh tri kiến, tư tưởng, nhận
thức hòa hợp không chống trái, không dị biệt), lợi hòa đồng quân (cùng chia sẻ
với nhau một cách đồng đều, bình đẳng về phương diện vật chất cũng như những thụ
hưởng tinh thần, cùng chia sẻ trên tinh thần hòa đồng ái kính).
Tứ nhiếp pháp là nghệ thuật đắc nhân tâm, phương pháp chinh
phục và nhiếp hóa quần chúng. Đây chính là kỹ năng hòa nhập tập thể, tổ chức, cộng
đồng làm lợi ích xã hội. Đức Phật dạy dùng pháp bố thí (bố thí tiền bạc của cải,
cơm ăn áo mặc, phương tiện kiếm sống, nói chung là về phương diện vật chất; bố
thí kiến thức, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp, lời hay lẽ phải, những
giá trị đạo đức; bố thí sự bình an , yên ổn bằng lời an ủi, khuyên nhủ, dỗ
dành, sự bảo vệ, chở che) để tạo thiện cảm, sự mến mộ nơi mọi người; dùng lời
nói từ ái, dịu dàng (ái ngữ), duyên dáng, lịch sự, lời nói chân thành, khéo léo
để chinh phục lòng người; dùng sự tận tình, tận tâm giúp đỡ, khích lệ mọi người
để tạo sự cảm mến (lợi hành); dùng sự gần gũi, thân cận, cùng sống chung, cùng
làm việc, cùng đồng cam cộng khổ, chia sẻ ngọt bùi để tạo tình cảm tốt, mối
tương giao tốt (đồng sự).
Ngoài một số giáo lý tiêu biểu nói trên, qua hệ thống kinh
điển đồ sộ, Phật giáo còn trang bị cho hàng ngũ xuất gia và tại gia những kỹ
năng nhận thức bản thân, xác lập mục
tiêu cuộc đời, cách xây dựng đời sống hiện tại và tương lai an lạc. Chẳng hạn
như Đức Phật tuyên bố rằng ai cũng có khả năng giác ngộ thành Phật, ai cũng có
khả năng tự hoàn thiện mình nếu như người đó biết nỗ lực phấn đấu cải tạo bản
thân, biết hướng đến mục tiêu cao thượng. Đức Phật nhiều lần khẳng định rằng tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh, Ngài là Phật đã thành và chúng ta là Phật sẽ
thành. Thông qua giáo lý Ngiệp, Đức Phật dạy về tinh thần trách nhiệm cá nhân,
mỗi người phải ý thức rằng mình là chủ nhân của đời sống, mình hoàn toàn chịu
trách nhiệm việc mình làm, những gì mình tạo tác bằng thân (hành động), khẩu (lời
nói), ý (suy nghĩ), ngoài mình ra không ai có thể làm cho mình hạnh phúc hoặc
đau khổ; thông qua giáo lý duyên khởi; Đức Phật dạy về các mối tương quan tương
duyên trùng trùng, từ con người cho đến thế giới đều nằm trong sự vận hành của
nhân-duyên-quả, không có những thực thể tồn tại độc lập, không có những sự kiện
ngẫu nhiên, không có bất cứ quyền năng nào có thể chi phối muôn loài vạn vật
ngoài tiến trình nhân quả.
Phật giáo thường đề cập tới 84.000 pháp môn thích ứng với
nhiều căn cơ trình độ của con người, các pháp môn đều lấy chánh kiến, chánh tư
duy làm nền tảng, và lấy sự thực hành làm trọng tâm. Chỉ có sự thực hành, rèn
luyện trên cơ sở nhận thức mới giúp chúng ta hình những kỹ năng cần thiết. Nếu
nhận thức, lý luận thôi thì chưa đủ, do đó chúng ta chỉ có được những giá trị lợi
ích của giáo lý Đức Phật thông qua sự thực hành, thể nghiệm. ■
PHAN MINH ĐỨC