Sunday, December 30, 2012

NGỌN ĐÈN TRONG CÁI LU

Chuyện tiền thân Losaka kể về sự đầu thai nhiều kiếp của trưởng lão Losaka. Trong thời Đức Phật Ca-diếp, Trưởng lão đã là một vị rèn luyện trụ trì tại một ngôi làng nhỏ. Có một phần ăn được dân làng nhờ ông đem cúng dường cho một vị A-la-hán đang làm khách tại đó. Vì ghen tỵ, Trưởng lão đã không đem về cho vị ấy mà đem chôn dưới một đám lửa tro tàn. Hành động ấy đã khiến ông bị tái sinh một ngàn kiếp sống khổ cực. Năm trăm năm làm quỷ dạ xoa đói khát, chỉ có một lần được ăn đồ ô nhiễm dơ bẩn của bào thai. Năm trăm đời làm chó, chỉ có một ngày được no bụng với cơm đã ói ra.
 Luân chuyển nhiều đời, vị ấy đã tái sinh vào một gia đình của một người đánh cá ở kosala, trong ngôi làng có một ngàn gia đình.Trong ngày vị ấy đầu thai, ngàn gia đình ấy không bắt được một con cá nào. Khi vị ấy còn ở trong thai,l àng đó bị lửa đốt cháy bảy lần và bị xử phạt bảy lần. Họ suy nghĩ:”Trước kia chúng ta không có như vậy. Nay gặp nhiều tổn hại. Giữa chúng ta phải có một người có số đen. Chúng ta hãy chia thành hai nhóm, mỗi nhóm năm trăm gia đình.Và nhóm nào có người số đen, nhóm đó bị tổn hại.Và nhóm nào không có kẻ số đen, nhóm ấy được tăng thịnh”. Và cứ thế ,họ chia nhóm ấy thành hai, chia làm hai nữa. Họ chia đến khi chỉ còn một gia đình ấy,và khi tìm ra người số đen ở trong gia đình ấy, họ liền đánh đuổi đi.

Hành vi chôn thức ăn, không giao lại cho một vị A-la-hán được người khác cúng dường, đã đem lại hậu quả vô cùng xấu. Câu chuyện của trưởng lão Losaka còn nhấn mạnh tới khía cạnh cộng nghiệp.

Chẳng những vị này phải trải qua một ngàn kiếp sống cực khổ mà còn làm ảnh hưởng tới những người thân, bà con láng giềng của mình

Người mẹ phải tìm sống một cách khó nhọc, với bụng mang thai; khi thai đến kỳ, bà sanh được đứa con trai. Đứa bé ấy được sanh trong đời sống cuối cùng [của nghiệp lực] nên không thể bị giết hại. Như ngọn lửa trong cái lu, điều kiện trở thành A-la-hán cháy đỏ trong tim của nó.

Vì hành động xấu trong quá khứ, đứa bé chưa sinh ra đã phải chịu một cuộc sống khổ cực. Tuy nhiên, ước muốn giải thoát trong kiếp sống xa xưa vẫn nảy mầm. Bài giảng trên núi trong Tân ước nói rằng:”Chính anh em là ánh sáng trong trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp cái đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh cha của anh em, đấng ngự ở trên trời.”(Mát-thêu,5,14). Một nhà thơ cũng nói rằng:”Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Đối với Phật học thì khác, điều tốt phải được giữ vững như ngọn đèn để trong cái lu, nhờ vậy mà nó có thể tồn tại lâu dài, không bị ngọn gió của cuộc đời thổi tắt. Hãy giữ vững điều tốt đẹp như đèn để trong lu, đó là điều mà Phật học nhắn nhủ bạn.

Người mẹ nuôi dưỡng nó, tập nó chạy tới, chạy vòng; và khi nó đã đi được, bà đặt trong tay nó một cái bát đi xin, bảo nó đi vào một nhà kia, rồi bà bỏ trốn.Từ đó, đứa bé sống một mình, tìm đồ ăn tại chỗ này, nằm ngủ tại chỗ khác, không tắm, không săn sóc thân mình, tìm sống một cách khổ cực chẳng khác con quỷ ăn bùn. Nó dần dân lớn lên được bảy tuổi, lượm từng miếng cơm một mà ăn như con quạ, tại một cửa nhà nọ có đồ ăn còn lại từ các nồi được rửa.

Những mô tả trong các kinh văn Phật giáo đặc biệt, các sự kiện được diễn giải cụ thể, vì đối với Phật học, mỗi sự kiện đều là duy nhất, không có sự kiện thứ hai ở trên đời giống như vậy. Bà mẹ rất thương con nhưng không chịu nổi khổ cực. Bà nuôi nó đến lúc nó có thể tự sống được thì bỏ nó lại một mình. Nó sống một cuộc đời khổ cực, kinh văn không nói một cách trừu tượng rằng nó:”Sống lang thang không nhà” mà nói cụ thể là” ăn chỗ này nhưng ngủ ở chỗ khác”. Kinh văn không nói một cách tổng quát là ”Nó ăn cơm thừa canh cặn” mà nói cụ thể là ”lượm từng miếng cơm một mà ăn như con quạ, tại một cửa nhà nọ có đồ ăn còn lại từ các nồi cơm được rửa”. Hành văn cụ thể như vậy không mấy người làm được.

Một hôm, vị tướng quân chánh pháp Xá-lợi-phất đang đi khất thực ở Xá-vệ, thấy đứa bé, suy nghĩ không biết đứa bé đáng thương này ở làng nào, khởi lòng từ bi đối với bó và gọi: ”Hãy đến đây.”

Chắc rằng ngài Xá-lợi-phất đi khất thực ở Xá-vệ, đi qua nhiều con đường trong nhiều lần khác nhau và thấy đứa trẻ ăn xin lần này đến lần khác. Ngài đã quen với nó và do đó khởi lòng từ bi.

Đứa bé đến đảnh lễ Trưởng lão và đứng lại. Trưởng lão hỏi:

- Con sống ở làng nào? cha mẹ ở đâu?

- Thưa Tôn giả, con sống không nơi nương tựa. Cha mẹ, vì con mà phải sống quá mệt mỏi, nên bỏ rơi con mà trốn đi!

- Con có muốn xuất gia không?

- Thưa Tôn giả, con muốn xuất gia. Nhưng ai sẽ truyền giới cho kẻ khốn nạn như con?

- Ta sẽ truyền giới xuất gia cho con

- Lành thay, Tôn giả hãy truyền giới xuất gia cho con

Trưởng lão cho nó ăn các loại cứng và loại mềm, dắt nó đến tịnh xá, tự tay tắm rửa cho nó, truyền giới xuất gia cho nó làm sa-di; đến khi đủ tuổi, vị sa-di này lại được Tôn giả Xá-lợi-phất trao đại giới cho. Khi trưởng thành, người này được gọi là trưởng lão Losakatissa.

Ý nguyện  sống cuộc đời tu tập vào thời Đức Phật Ca-diếp ngày nay bắt đầu trở lại, ngọn đèn để trong tim của vị Trưởng lão đã không tắt qua nhiều kiếp sống.

Trưởng lão Losaka ít được nhận đồ cúng dường. Truyền thuyết nói rằng dầu có lễ bố thí to đến đâu, bụng Trưởng lão cũng không no, mà chỉ được ăn vừa đủ để nuôi mạng sống. Một muỗng cháo đổ vào bát của Trưởng lão dường như làm tràn đầy bình bát khiến những người cúng nghĩ rằng bình bát của ngài đã đầy tràn nên đem cháo cúng dường người kế tiếp. Khi cháo đổ vào trong bình bát của Trưởng lão, người ta nói cháo trong dĩa người cúng dường như biến mất.

Cái nhân gây ra bởi hành động chôn đồ ăn trong quá khứ vẫn còn trổ quả. Thức ăn, thức uống đều rất khó kiếm đối với ngài, mặc dù thời đó, việc cúng dường cho chư Tăng rất phổ biến. Như vậy ta thấy, mặc dù gặp điều kiện thuận lợi cho việc tu tập, nghiệp riêng của Trưởng lão Losaka vẫn làm cho ngài không có thức ăn.

Trưởng lão chứng quả A-la-hán sau một thời gian tăng trưởng thiền quán, nhưng đồ cúng dường nhận được vẫn rất ít oi.Thọ hành Trưởng lão dần dần giảm thiểu, và ngày nhập Niết-bàn đã đến. Tướng quân Chánh pháp hướng tâm đến, biết ngày Trưởng lão nhập Niết-bàn, tự nghĩ:”Trưởng lão Losakatissa hôm nay sẽ nhập Niết-bàn. Ta sẽ khuyên người ta cúng dường Trưởng lão đồ ăn như ý muốn”. Tôn giả Xá-lợi-phất đưa Trưởng lão vào thành Xá-vệ khất thực. Dầu xòe tay cho nhiều người ở Xá-vệ, cũng không nhận được ngay cả một tô cháo.

Nghiệp của Trưởng lão Losaka ảnh hưởng cả đến ngài Xá-lợi-phất. Khi hai người đi khất thực chung, cả ngài Xá-lợi-phất cũng không nhận được gì.

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Losakatissa về trước, ngồi ở phòng họp ,rồi đi khất thực một mình. Khi có thức ăn ,ngài gửi người đem đến cho Losakatissa. Những ai được Xá-lợi-phất giao thức ăn đem về đều quên giao cho Losakatissa và tự mình ăn phần ăn ấy.

Nghiệp của Trưởng lão nặng đến nỗi ngài Xá-lợi-phất phải tách ra đi riêng mới mong nhận được đồ cúng dường. Tuy nhiên, khi thức ăn được gửi về cho Losakatissa thì mọi người lại…. quên luôn.

Khi tôn giả Xá-lợi-phất đi về tinh xá, Losakatissa đến đảnh lễ. Tôn giả dừng bước quay lại hỏi:

-Này hiền giả, hiền giả có được thức ăn không?

-Thưa Tôn giả, chúng con sẽ nhận được đúng thời.

Trưởng lão Losaka rất bình tĩnh, ngài biết tất cả khó khăn này do nghiệp của mình. Câu trả lời đúng theo định luật nghiệp báo:”chúng con sẽ nhận được đúng thời”.

Tôn giả Xá-lợi-phất hoảng hốt nhìn giờ, thời giờ đã quá rồi. Ngài nói:

- Này hiền giả, hãy ngồi ở đây.

Tôn giả bảo Losakatissa ngồi trong phòng họp, rồi đi đến chỗ nhà vua Kosala. Nhà vua cho người lấy bát của Tôn giả, bỏ đầy bát với bốn loại bánh ngọt và nói:

- Đây là đồ ăn phi thời.

Theo giới luật thì không được khất thực quá ngọ. Nhà vua không biết duyên cớ sự việc nên đã nói một câu nhận xét theo đúng giới luật. Tuy nhiên, một vị đứng đầu một quốc gia không nên sơ suất như vậy.

Tôn giả Xá-lợi-phất cầm bình bát đi về và nói:

-Này hiền giả Tissa, hãy ăn bốn loại bánh ngọt này.

Nói xong Tôn giả cầm bình bát và đứng chờ. Nhưng Losakatissa hổ thẹn, và vì lòng kính trọng đối với Tôn giả Xá-lợi-phất, ngài không dám ăn. Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Losakatissa.

- Này hiền giả, hãy đến. Ta đứng cầm bình bát này, còn hiền giả ngồi và ăn. Nếu tay ta rời bình bát thì không còn vật gì cả.

Do thần thông lực thuộc bậc thánh của ngài Xá-lợi-phất, bánh ấy không biến mất. Trưởng lão Losakatissa được ăn như ý muốn, đầy đủ, no bụng. Ngày hôm ấy,Trưởng lão Losakatissa đắc Niết-bàn. Khi mọi người thắc mắc:

- Này các hiền giả, Losakatissa ít phước đức, ít nhận được đồ cúng dường. Do ít phước đức, ít nhận được đồ cúng dường như vậy, làm sao lại đắc Niết-bàn.

Đức Phật trả lời:

-Này các vị rèn luyện, ông ấy do nghiệp tự mình làm nên không được cúng dường và cũng do nghiệp mình làm mà không được thánh pháp. Ông ấy thuở trước làm chướng ngại người khác cúng dường nên ít được cúng dường. Ngày nay, do chú tâm thiền quán vô thường vô ngã nên được thánh quả.

TẤN NGHĨA
Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo