Sunday, January 6, 2013

Câu kệ 1: Ác Lai Ác Báo. Làm Ác Gặp Dữ.


 “Đau khổ đi theo người làm việc ác, như bánh xe đi theo chân con vật kéo”.

Manopubbangamà  dhammà Ý dẫn đầu các Pháp
Manosetthà manomayà Ý làm chủ,ý tạo                                      
Manasà  ce  padutthena Nếu với ý ô nhiễm                
Bhàsati  và  karoti  và   Nói lên hay hành động   
Tato  nam  dukkhamanveti  Khổ não bước theo sau
Cakkam  và  vahato  padam. Như xe, chân vật kéo.
Dịch nghĩa: Tâm dẫn đầu các Tâm Sở ( Bất Thiện). Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả ( các Tâm Sở Bất Thiện). Nếu nói hay làm với Tâm ác, do đó, đau khổ sẽ theo liền với ta như bánh xe lăn theo dấu chân con bò ( kéo xe).
Tâm đi trước thọ, tưởng, hành
Tâm là chủ pháp, Tâm thành nghiệp duyên.
Ai mà Tâm dục chẳng hiền
Nói, làm chi cũng lụy phiền theo sau.
Chân con vật kéo nơi nào,
Bánh xe lăn cũng theo sau đành rành.
                        ( Tỳ Khưu Pháp Minh)

Các Pháp do ý dẫn đầu
Ý chủ, ý tạo bắt cầu đưa duyên.
Nói, làm với ý chẳng hiền,
Bánh xe bò kéo, khổ liền theo sau!
                     ( Tỳ Khưu Giới Đức)
Tích Truyện: Một vị trung niên có Đạo tâm tín thành, tên gọi Cakkhupàla – Hộ Nhãn, xuất gia  chân chánh này đến Đạo Quả Vô Sinh ( Alahán), và cũng ngay lúc chứng đắc Đạo Quả, Ngài phải bị mù cả hai mắt.
     Vào một ngày, khi đi Thiền hành, Ngài Trưởng Lão Cakkhupàla đã vô tình làm chết côn trùng. Có một nhóm tỳ khưu từ xa đến, thấy có vết dấu máu dài trên đường lộ, vào thưa với Đức Phật rằng Ngài Trưởng Lão Cakkhupàla đã phạm giới sát sanh. Đức Phật đã giải thích rằng Ngài Trưng Lão Cakkhupàla đã đắc Quả Vô Sinh ( Alahán), do đó không có tác ý làm chết những côn trùng, trong khi Thiền hành.
      Lúc bấy giờ, chư Tỳ Khưu muốn được biết nguyên nhân về Trưởng Lão Cakkhupàla bị mù.
      Đức Phật đã kể lại tiền kiếp của Trưởng Lão, có một kiếp làm một vị thầy thuốc, và có chữa bệnh đau mắt cho một thiếu phụ nghèo đói. Bà đã hứa, nếu được khỏi bệnh, bà và con gái của bà sẽ về làm công để trả ân trong nhà của vị thầy thuốc này. Thuốc quả thật công hiệu, nhưng bà lại không giữ lời hứa, viện lẽ rằng mắt của bà còn tệ hơn trước khi dùng thuốc. Vị thầy thuốc khởi tâm oán hận và nảy sanh một ý tưởng ác độc. Để trả thù việc bội ước, vị thầy này cho một thứ thuốc làm mù cả hai mắt của người thiếu phụ này.
       Do nghiệp ác trong quá khứ, ngày đắc Đạo Quả, Ngài Trưởng Lão Cakkhupàla đã phải trả quả báo theo Nghiệp đã tạo, mù cả hai mắt.

Vì tâm niệm ác lúc chưa tu,
Thánh Hộ đời nay phải chịu mù.
Chế thuốc cho người công chẳng thí,
Dùng mưu hại chúng tội đành bù.
Nhân gieo ý chí vui vài phút,
Quả hái thân còn cực mấy thu.
Sớm biết hồi đầu lo giải thóat,
Răn lòng, chẳng trễ buổi công phu.

       Giải Thích: Đây là phương diện nhân quả tương xứng ( gieo nhân thì gặt quả báo) của định luật Nghiệp Báo. Theo từ ngữ Pàli “ Kamma – Nghiệp”, có ý nghĩa là “ hành động, hay việc làm”. Một cách chính xác, Kamma – Nghiệp, là tất cả “ ý muốn làm” ( Cetanà – Tư, Tác Ý ) thiện hay bất thiện. Nghiệp bao gồm tất cả những gì biểu hiện bằng thân, lởi, hay ý. Nghiệp là định luật nhân quả trong lãnh vực đạo đức. Nói cách khác, Nghiệp là hành động và phản ứng của hành động trong phạm vi luân lý, hay là “ ảnh hưởng của hành động”. Nghiệp không phải là số mạng hay tiền định. Nghiệp là phản ứng của chính hành động mình trở lại cho mình. Mọi hành động cố ý, ngoại trừ hành động của một vị Phật hay một vị Alahán, đều được gọi là Nghiệp. Kamma là hành động, và Vipàka – là quả, hay hậu quả. Đây là nguyên nhân và hậu quả. Kamma ví như hột giống. Vipàka ví như trái cây. Khi đã gieo hạt giống, ta sẽ gặt hái quả ở một nơi nào, vào một lúc nào, trong kiếp hiện tại hay trong một kiếp sống tương lai. Những gì chúng ta gặt hái ngày hôm nay là hậu quả của những gì chúng ta đã gieo, hoặc trong hiện tại hoặc ở trong quá khứ. Kamma tự nó là một định luật, định luật nghiệp báo, và tự động tác hành trong phạm vi của nó, không có sự can thiệp nào từ bên ngoài. Đây là định luật tác động một cách độc lập. Khả năng tạo quả tương ứng, cố hữu dính liền và tiềm tàng trong nghiệp. Nhân tạo quả. Quả giải thích nhân. Hạt giống sanh ra trái. Thấy trái biết được hạt giống nào đã được gieo.Và mối tương quan giữa Nghiệp và Quả cũng dường thế ấy. Quả đã bắt đầu trổ sanh trong nhân.
       Một bậc Vô Sinh ( Alahán), dù đã thanh lọc mọi ô nhiễm, nhưng vẫn còn phải gặt hái những quả mà chính Ngài đã tạo ra trong quá khứ xa xưa.
        Chư Phật và chư vị Alahán, không còn tạo Nghiệp mới vì các Ngài đã tận diệt mọi căn cội – vô minh và ái dục, tuy nhiên, cũng như tất cả chúng sanh, các Ngài không thể tránh khỏi hậu quả dĩ nhiên của những hành động, tốt hay xấu, mà các Ngài đã tạo ra trong quá khứ.
         Trong câu kệ thứ 1 này, từ ngữ Dhamma muốn nói đến là Tâm Sở Tư ( Cetanàcetasika) hay Tác Ý. Chính Tâm Sở Tư tạo nghiệp, và Đức Phật đã dạy: “ Chính Tâm Sở Tư là Nghiệp”.
         Tâm dẫn đầu mọi hành động và tác dụng như thành phần chánh yếu trong khi tác hành, cũng như trong khi quyết định hành động. Chính Tâm điều khiển và tạo tác hành động, qua Thân, Lời hay Ý.
          Đức Phật nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của Tâm trong đời sống nhân loại, và từ đó, Đức Phật giải thích bằng cách nào hành động trở nên tốt hay xấu, thiện hay bất thiện, tùy theo trạng thái Tâm. Cuối cùng, Ngài nhắc đến những hậu quả dĩ nhiên phải có của những hành động tương tự.
       “ Chúng ta như thế nào, tất cả đều là hậu quả của những gì ta tư tưởng”.