1. Yaṃ mangalaṃ dvādasahi,
cintayiṃsu sadevakā;
Sotthānaṃ
nādhigacchanti,
aṭṭhattiṃsañca
maṅgalaṃ.
2. Desitaṃ devadevena,
sabbapāpavināsanaṃ;
Sabbalokahitatthāya,
mangalaṃ taṃ bhaṇāma
he.
3. Evaṃ me sutaṃ–
ekaṃ samayaṃ Bhagavā
Sāvatthiyaṃ viharati jetavane
Anāthapiṇḍikassa ārāme.
Atha kho aññatarā devatā
abhikkantāya rattiyā
abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ
Jetavanaṃ obhāsetvā yena
Bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā
Bhagavantaṃ abhivādetvā
ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā
Bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi–
maṅgalāni acintayuṃ
ākaṅkhamānā sotthānaṃ,
brūhi maṅgalamuttamaṃ”.
paṇḍitānañca sevanā;
pūjā ca pūjaneyyānaṃ‚
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
6. Patirūpadesavāso ca,
pubbe ca katapuññatā;
attasammāpaṇidhi ca,
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
7. Bāhusaccañca sippañca,
vinayo ca susikkhito;
subhāsitā ca yā vācā,
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
8. Mātāpitu upaṭṭhānaṃ,
puttadārassa saṅgaho;
anākulā ca kammantā,
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
9. Dānañca dhammacariyā ca,
ñātakānañca saṅgaho;
anavajjāni kammāni,
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
10. Āratī viratī pāpā,
majjapānā ca saṃyamo;
appamādo ca dhammesu,
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
11. Gāravo ca nivāto ca,
santuṭṭhi ca kataññutā;
kālena dhammassavanaṃ‚
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
12. Khantī ca sovacassatā,
samaṇānañca dassanaṃ;
kālena dhammasākacchā,
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
13. Tapo ca brahmacariyañca,
ariyasaccāna dassanaṃ;
nibbānasacchikiriyā ca,
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
14. Phuṭṭhassa lokadhammehi,
cittaṃ yassa na kampati;
asokaṃ virajaṃ khemaṃ,
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
Etādisāni katvāna,
sabbatthamaparājitā;
sabbattha sotthiṃ gacchanti,
taṃ tesaṃ maṅgalamuttaman”ti.
Maṅgalasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
NGHE ÂM THANH
3) Maṅgalasuttaṃ - KINH PHƯỚC LÀNH 39
1) KINH PHƯỚC
LÀNH
1. Những
phước lành mà hàng thiên–nhân
suốt
mười hai năm đã suy nghĩ,
họ
cũng không biết được những điều cát tường
gồm
có ba mươi tám điều phước lành
2. Đã được thuyết bởi thiên chủ muôn thiên (Đức
Thế Tôn),
nhằm hủy diệt mọi điều tội lỗi,
và mang lại những điều lợi lạc cho tất cả
thế gian.
Hỡi chư hiền, hãy tụng lên những điều phước
lành này.
3. Tôi
là Ananda[1]
đã được nghe như vầy -
Một
thuở Đức Thế Tôn, Ngự ở Sa-vát-thí, tại Đại tự Kỳ Viên
Của
trưởng giả tên là, Anāthapiṇḍika. (Tư-đà
Cấp-cô-độc),
Khi
đêm đã gần mãn, có thiên tử xuất hiện với hào quang thù diệu, chiếu sáng cả Kỳ
viên; đến đảnh lễ Thế tôn. Lễ xong đứng một bên, Vị thiên bạch Thế Tôn, bằng
bài kệ như vầy:
4. Nhiều chư
Thiên nhân loại, Suy nghĩ về phước lành
mong
ước điều cát tường. Xin Ngài hãy nói lên
những phước lành cao thượng.
(Thế Tôn tuỳ lời hỏi rồi giảng giải như vậy:)
5. Không kết giao kẻ ngu (1); Thân cận người thiện trí, (2)
Kính lễ bậc đáng lễ (3), là phước lành cao
thượng.
6. Ở nơi chốn thích hợp (4); Công đức trước đã làm, (5)
Giữ mình được tốt đẹp (6), là phước lành cao
thượng.
7. Học nhiều (7), thực hành giỏi (8); Thuần thục các giới điều (9)
Nói những lời lợi ích (10), là phước lành
cao thượng.
8. Phụng dưỡng mẹ và cha (11); Chăm sóc vợ và con (12)
Việc làm không lẫn lộn (13), là phước
lành cao thượng.
9. Bố thí (14), hành Thiện Pháp (15); Hộ độ thân quyến thuộc (16)
Hành xử không lỗi lầm (17), là phước lành
cao thượng.
10. Bỏ (18) và tránh (19) điều ác; Kiêng cữ các chất say, (20)
Nỗ lực trong thiện nghiệp (21), là phước
lành cao thượng.
11. Cung kính (22) và khiêm nhường(23); tri túc (24) và tri ân (25)
Đúng thời nghe chánh Pháp (26), là phước lành
cao thượng.
12. Kham nhẫn (27) và nhu thuận (28); Tiếp kiến các
Sa môn (29)
Đàm luận Pháp tùy thời (30), là phước
lành cao thượng.
13. Tận tâm (31), hành Phạm hạnh (32); Tri-kiến Tứ
Thánh Đế (33)
Thực chứng được Niết Bàn (34), là phước
lành cao thượng
14. Xúc chạm Pháp thế gian, tâm không động (35),
không sầu (36)
Tự tại (37) và vô nhiễm (38), là phước
lành cao thượng
Những sở hành như vậy, bất bại ở mọi nơi,
Mọi nơi đến cát tường. Đây phước lành cao
thượng.
[1]. Tôi
ở đây là Vị Đại Đệ tử Đa Văn Đệ Nhất – Thị giả của Đức Phật – Ngài Ananda – chịu
trách nhiệm trùng tuyên Kinh tạng tại cuộc Kết Tập Tam Tạng Kinh điển lần đầu
tiên tại Rājagaha ba tháng sau khi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn. Tại đó Ngài tụng
lên tất cả các bài Kinh mà Ngài được nghe từ chính kim ngôn Đức Thế Tôn đã thuyết
trong đó có bài Kinh này. Trong Tăng chúng Ngài Ananda có một trí nhớ siêu việt,
phi thường khó có một vị nào sánh bằng.