Giác chi sau cùng của 7
giác chi chính là Xả giác chi. Một trong những hình ảnh sống động nhất thường
được dùng để nói về Xả giác chi là một ngọn núi cao giữa trời đất. Ngọn núi vẫn
cứ đứng đó khi nắng lên, mưa xuống. Bao tuyết sương có đổ đầy lên. Ngọn núi
cũng cứ thế: Vô tâm và im lặng không phản ứng! Xả giác chi là một sức mạnh nội
tâm giúp ta có thể cảm nghiệm một cách bình tĩnh tất cả những biến động của
thân tâm và nó sẽ trở nên vững mạnh hơn khi ta biết sống phơi mở không nắm chặt
cũng không bị nhốt kín trong những âu lo và ước muốn, dù trong đời sống thường
ngày hay trong cả lúc thiền định. Ðó là một thái độ sống bao dung theo nghĩa
rộng nhất. Ta cẩn trọng đón chào từng cảm giác của tâm sinh lý bằng một sự tự
chủ trong từng chớp mắt và liên tục nhìn ngắm chúng một cách khách quan. Có
thấy khó thực hiện điều nầy, ta vẫn cứ tiếp tục. Một lúc nào đó mọi việc sẽ ổn
cả thôi.
Một Xả giác chi khi được
thành tựu sẽ cho ta một cảm giác nội tâm bất động và vô can trước bất cứ kinh
nghiệm nào của bản thân. Có một từ ngữ đặc biệt để gọi trạng thái đó, là
"Sự an nhiên của người hiền sĩ". Sự an nhiên nầy cho phép bậc hành
giả dấn bước vào chốn tuyệt cùng của tất cả nổi đau đớn kể cả sự chết, mà không
hề biết tới sợ hãi. Trình độ an nhiên sâu sắc nầy sẽ có được khi ta biết tách
mình ra khỏi những gì mình đang cảm nhận. Có gia công khám phá tính phù du và
nhạt nhẻo của từng khía cạnh đời sống, ta mới thật sự bắt đầu thấm thía bản
chất của mỗi thái độ xử lý mà chúng ta vẫn dùng để phản ứng trước các đối tượng
ngoại giới. Tất cả những tâm tư tình cảm tốt xấu, từ cái đam mê đến nổi sợ hãi,
kể cả tấm thân sinh lý nầy của ta, đều là những gì tạm bợ và thật buồn cười nếu
cứ nhắm mắt nhũ lòng bằng những ảo tưởng "tôi, cho tôi, của tôi...".
Chính kinh nghiệm giản đơn nầy sẽ mang lại cho hành giả một sự an nhiên và tự
do sâu sắc.
Người ta thường hiểu lầm
rằng đời sống thiền định sẽ làm nội tâm hành giả trở nên trơ lì, chai sạn và vô
cảm. Thực ra, bất cứ giá trị nào của tinh thần có được từ thiền định, chẳng hạn
Xả giác chi ở đây, đều là những năng lực hết sức tích cực đủ để xây dựng nên
những tâm hồn vĩ đại như thánh Gandhi hay bà phước Teresa của Ấn Ðộ, vô ngại
trước mọi thử thách ghê gớm nhất của đời sống lợi tha và tỉnh thức.
Người ta kể lại rằng tại
Triều Tiên (Ðại Hàn) vào thời chiến tranh có một viên tướng rất tàn bạo, luôn
sẵn sàng phá hủy hết tất cả những gì bắt gặp trên đường hành quân. Nghe tới tên
ông, dân chúng mọi miền chỉ còn cách bỏ trốn vào núi rừng để mong được an thân.
Lần đó, đến một thành phố gần như đã hoang vắng, ông cho lính lùng sục khắp nơi
để tìm của, tìm người. Một toán lính đã quay lại báo cáo cho ông biết rằng toàn
thành phố bây giờ đã không còn ai nữa trừ một thiền sư vẫn tiếp tục ở lại trong
một tu viện. Viên tướng nghe xong, tức tốc đến tận nơi, rút kiếm, thét vào mặt
nhà sư đó:
- Ông có biết ta là ai
không hả? Ta có thể xén ngang thân mình ông trong nháy mắt đấy biết chứ?
Nãy giờ vẫn ngồi yên
lặng nhìn lên bệ Phật, vị thiền sư nhẹ nhàng quay mình nhìn lại, và ngài nói
bằng một giọng từ tốn:
- Còn ta, ta biết mình
có thể bị xén ngang thân mình bất cứ lúc nào!
Chẳng biết viên tướng
suy nghĩ thế nào, ông lại cuối đầu kính cẩn trước vị thiền sư rồi ra đi.
Xả giác chi là một giá
trị tinh thần khi được phát triển có thể giúp hành giả đạt tới khả năng đối
cảnh mà vẫn vô hại (nói một cách khôi hài mà cũng dễ hiểu là "bắt cảnh mà
không bị cảnh bắt!").
Phát hiện được năng lực
nội tại nầy là cả một nguồn an lạc to tác cho công phu thiền định vậy.
Ðức Phật nói tới Thất
giác chi như những thành quả và giai đoạn tinh thần dẫn tới cứu cánh giác ngộ.
Qua những thời gian công phu thích ứng, ở một môi trường nào đó, ta sẽ cảm nhận
được sự hiện diện của chúng ngay trong chính mình bằng cách tiếp thụ những sức
mạnh nội tâm của bản thân mà chúng mang lại. Khi những âu lo, toan tính tiềm
tàng trong các phản ứng tâm lý cùng những hổn loạn nội tại được lắng dịu, ta sẽ
bắt đầu thấy được bản chất thật sự của mình thông qua những ước muốn và ngộ
nhận. Bởi vì sự thể nhập trọn vẹn bảy giác chi luôn được thể hiện qua một tỉnh
thức cao độ về thế giới thực tại. Và quá trình trưởng dưỡng bảy giác chi cũng
giống như công phu gieo trồng, chăm sóc một cội cây hay khóm hoa vậy. Chuyện
không thể tức thời hoàn tất trong đầu hôm sớm mai, mà ta phải luôn kiểm tra để
kịp thời xử sự một cách hiệu quả. Hãy nhớ rằng đời sống tỉnh thức thực ra không
dễ thực hiện lắm đâu!
Quả là rất kỳ tuyệt nếu
Thất giác chi được thành tựu và hiển hiện qua nhân cách sinh hoạt của mỗi
người. Lúc đó chúng ta sẽ là những vị Phật, những bậc thánh Nguyễn văn... Trần
thị, những ông thánh Robert, John, Smith! - Dù là ai đi nữa ở bất cứ nơi đâu và
lúc nào, khi biết sống tỉnh thức với sự gia trì của Thất giác chi thì cũng đều
cảm nhận được sự tự do và an lạc như nhau. Có nhiều con đường dẫn tới cứu cánh
giải thoát cho chúng ta. Ta đừng để mình bị đánh lừa bởi bất cứ hình thức ngoại
diện nào, bởi điều nầy thực sự không quan trọng, cho dù đó là một truyền thống
tín ngưỡng vẫn thường được ái mộ hay bị thành kiến. Hình thức nào cũng là tốt
cả: từ màu áo của thiền tông đến những nghi lễ của Ấn Giáo, những thần chú của
Mật Tông hay những vũ điệu tế thần của Hồi Giáo... miễn sao trong những hình
thức đó chứa đựng được nội dung Thất Giác Chi!
Giá trị của công phu
Thất giác chi là giúp hành giả khai phá tất cả ảo tưởng vọng chấp và đáo đạt
cái sự thật sâu thẳm nhất trong chính mình. Những gì vẫn bị che lấp sẽ được
phơi bày và chúng ta sẽ có được một nếp sống hài hoà, rộng mở, trong sáng, tự
do.
J.K