Một đêm kia, mấy người bạn của Nasruddin đến thăm
ông ta và trông thấy ông ta đang loay quay mò mẫm như để tìm kiếm một thứ gì đó
dưới cột đèn đường. Họ hỏi ông muốn tìm cái gì, ông nói đã đánh mất chìa khóa
cửa nhà. Cả đám bạn cùng ngồi xuống lề đường để tìm giúp ông nhưng họ chẳng
thấy chiếc chìa khóa đâu cả. Sau cùng một người trong nhóm đã hỏi Nasruddin xem
ông có thể nhớ đại khái là đã đánh mất nó ở đâu. Ông ta điềm nhiên trả lời
rằng: "Mình đã bỏ quên chìa khóa trong nhà". Ðám bạn bè ngạc nhiên
hỏi ông biết vậy sao đi tìm ở một chỗ vớ vẫn như vậy, Nasruddin mĩm cười như
không: "- Bởi vì ở đây có đèn sáng."
Chúng ta cũng có thái độ
tầm cầu hạnh phúc gần giống như vậy, là luôn có khuynh hướng đi tìm hạnh phúc
trong những điều kiện mà mình có đặt hy vọng. Ðiều kiện càng có vẻ hứa hẹn thì
càng lôi cuốn chúng ta. Mà một nguồn hạnh phúc và an bình thật sự thì chỉ có
được từ một sự tri túc, dung dị. Vì thực ra cái hạnh phúc thật sự cần thiết cho
chúng ta đâu có chi là nhiều. Một sinh phong giản dị với một tâm thái hồn nhiên
là đã đủ mang lại ánh sáng và cảnh giới cao rộng cho đời sống của chúng ta rồi.
Một khi những xung động tham dục đã được lắng xuống, nội tâm không còn bị điều
hành bởi các ham muốn phù phiếm, thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được một sự an bình
tuyệt vời.
Chúng ta đừng bao giờ
hiểu lầm rằng thái độ sống như trên là sự lãnh đạm xoay lưng với thế giới quanh
mình (bởi thường thì đã có không ít những cá nhân hiểu và sống như vậy), mà
ngược lại ta cần thấy rằng thái độ nội tâm đó, nếu được khéo vận dụng, sẽ làm
hoán chuyển cuộc sống của chúng ta với phong cách hoạt động tích cực và trọn
vẹn.
Tinh thần thoát sái và
bao dung đó là một biểu hiện sống động cho trình độ trí tuệ của mỗi người. Nó
xây dựng cho chúng ta một trái tim hào sảng và khoáng đạt trước mọi sự từ sinh
hoạt thường nhật đến cách xử lý các tình huống, và cao nhất chính là một tâm
hồn biết yêu thương, tha thứ.
Bên cạnh cái giá trị cơ
bản mang ý nghĩa làm nên một nhịp cầu đối giao với tha nhân, thì ở đây một tấm
lòng luôn rộng mở còn giúp chúng ta cái nhìn tinh tế, thấu suốt về chiều sâu tế
vi, nhỏ nhiệm của nội tâm mình cùng những tập tính kín khuất mà mình không mấy
khi có thể nhận diện được.
Trong những năm tháng
thực tập thiền định tại Ấn Ðộ, tôi (tức là tác giả Joseph Goldstein) đã mất một
thời gian dài để nghĩ hoài về hai tiếng "bố thí", bởi ở những nơi mà
tôi đã từng đi qua, đặc biệt ngay tại chỗ ở của tôi lúc đó, vẫn luôn có quá
nhiều người nghèo khó đặt thẳng vấn đề yêu cầu được bố thí, nhất là những hành
khất. Chúng ta có nghèo nàn ra sao, điều đó không quan trọng, vấn đề nằm ở ngay
trong tâm hồn mình thôi. Lần đó sau khi mua xong mấy quả cam ở một quầy bán,
tôi bước ra đường và gặp ngay một thằng bé ăn mày. Nó xin tôi, tôi đặt vào tay nó
một trái cam. Rồi chẳng một lời cảm ơn hay ít nhất là một nụ cười, thằng bé cứ
dững dưng xoay lưng đi thẳng. Tôi lúc đó dĩ nhiên cũng có tí khó chịu nếu không
muốn nói là phật lòng, nhưng rồi một bài học thú vị đã tự đến trong tôi.
Thái độ của thằng bé ăn
mày đã tình cờ vén ra cho tôi một góc kín của nội tâm, về một nhu cầu tâm lý
hết sức tế nhị: Chúng ta luôn cần tới sự đáp đền, thù tạc cho một hy sinh lớn
nhỏ nào đó của mình, kể cả những cử chỉ được thực hiện bằng một sự cực lòng,
thậm chí bất đắc dĩ! Với một chút tư nghiệm nghiêm cẩn, chúng ta có thể nhận
diện và loại trừ những bất toàn tâm lý đó cùng học cách đối trừ chúng bằng một
tinh thần "Phong lai sơ trúc lưu thanh, nhạn quá hàn đàm vô lưu ảnh"!
Vào những ngày cuối đời
của mình, Aldous Huxley cho biết rằng ông đã thấu suốt được giá trị tu dưỡng
tối thượng của tình thương đối với tha nhân. Ðào luyện tinh thần vị tha chính
là sự hài hòa, bao dung với tất cả mọi người thay vì đặt giữa đôi bên một rào
cản ngăn cách và phân biệt. Tình thương lợi tha có thể phá vỡ tất cả giới tuyến
cách ly giữa mình với người và ở một mức độ vị tha nhất định nào đó, chúng ta
sẽ tự biết lãng quên bản ngã của mình, rồi mở rộng vòng tay đón chào tất cả.
Chính nhờ lòng vị tha rộng lớn này, chúng ta coi như cũng đã tự cứu thoát mình
ra khỏi ngục tù chật hẹp của mọi ngã chấp, những cái tôi đã giam cầm sinh phong
của chúng ta từ bao năm tháng ngộ nhận. Và một điều hết sức quan trọng trong
công phu phát triển tình thương vị tha là chúng ta không nên tự quy định một
điều kiện, tiêu chuẩn mang tính máy móc và quy tắc nào cho tình thương của
mình. Ta thương người ở mọi không gian, thời gian mà không hề chờ đợi một cơ
hội tối ưu, hợp lý nào đó. Bởi chỉ cần chúng ta có sẳn một tấm lòng thì mọi
nơi, mọi lúc luôn có đất lành cho từ tâm của chúng ta đậu xuống.
Tình thương thay lòng từ
bi sẽ thành ra nguồn sống mãnh liệt khi chúng ta cò được nếp sống hiểu biết, có
ý thức trong hoạt động cùng lối hành xử đối giao hài hòa, vô hại với người
khác. Và ta cũng có thể nói rằng năm giới cấm căn bản người Phật tử cũng khả dĩ
mang lại một hướng sống vừa dung dị mà cũng hiệu quả trong tương giao, hòa đồng
với người khác, đồng thời cũng là những tác động rất tích cực đối với môi
trường sống quanh mình. Ngũ giới là những giá trị đức hạnh cơ bản, cần thiết cho
sự tự chế bởi tự chúng đã có cái chức năng gạn lọc rất ý nghĩa cho sự tự chế
trước những hướng sống đầy âu lo và ngộ nhận, mê lầm. Thậm chí, chỉ với một tâm
hồn giàu tình thương và vô hại của mình thì coi như chúng ta đã hiến tặng cho
tất cả những người dối diện một món quà thật quý giá bởi chúng ta đã sống với
một sinh phong tuyệt vời: "Chẳng khiếp sợ một ai và cũng chẳng làm ai
khiếp sợ".
Tâm nghiệp từ hòa luôn
tạo ra một sức mạnh nội tâm đáng kể bởi từ đó toàn bộ năng lực tâm hồn của
chúng ta không bị giới hạn bó buộc trong những ý tưởng chiếm hữu, những tập
tính dối trá cũng như những mặc cảm tâm lý tệ hại. Ðồng thời, một sự chấp trì
nghiêm túc các học giới cũng có thể giúp ta tự tránh được những lầm lỗi trong
đời sống, kể cả một cắn rứt, ám ảnh nội tâm nào đó. Ðiều này được nhắc tới ở
đây là chính vì một ý nghĩa dễ hiểu là mặc dù trong đời sống bươn chãi bề bộn
của mình, chúng ta không mấy khi có thể cảm nhận được những kinh nghiệm nội tại
tế vi đó nhưng ở một trình độ tĩnh lặng đúng mức, những ấn tượng về quá khứ sẽ
tự dưng hiển hiện một cách sống độngvà rõ ràng hơn bao giờ hết. Mà bên cạnh đó,
chỉ cần có được một ý thức sống hoàn thiện và đạo hạnh, chúng ta có thể dễ dàng
tẩy xóa, xoa dịu những ray rức thống hối về qua khứ của mình, những mặc cảm tội
lỗi vẫn dày vò, giằng xé chúng ta từ bấy lâu nay.
Ðời sống tu tập của
chúng ta thực ra có một phần nền tảng nằm ở tâm hồn vị tha mà tính chất của nó
luôn hàm chứa những khía cạnh tương hợp nhau: Lòng Từ là ước muốn mang lại hạnh
phúc cho tha nhân, mong ai cũng luôn được an lành toại nguyện, tâm Bi là sự bất
nhẫn, trắc ẩn trước những đau khổ của người khác và tâm Hỷ (hay lòng tùy hỷ) là
sự chung vui chân thành với những thành đạt hạnh phúc của tha nhân, một sự san
sẻ vô tư, lấy cái hạnh phúc của người khác làm niềm vui cho mình. Những giá trị
nội tâm này sẽ luôn là những món trang sữc tô điểm cho những ai thủ đắc, sở hữu
được chúng. Thay vì chỉ biết tự tô lục chuốt hồng cho mình bằng những điểm
trang hình thức, chúng ta hãy tự làm đẹp mình bằng những chuỗi ngọc tình thương
và với chính cái đẹp nội tại này, chúng ta coi như đã là một hình tượng mỹ
thuật cao nhất mà trình độ nghệ thuật của con người có thể vươn tới, đó là thứ
nghệ thuật hiện hữu mang trọn tất cả ý nghĩa cao đẹp nhất: Ðẹp mà Lành.
Ðoạn cuối bài viết, tôi
muốn nhấn mạnh một vấn đề tối hậu mà cũng có thể là tối trọng rằng cái cốt lõi
của cuộc tu phải là chúng ta cần tự biết chuyển hóa cái thế trí biện thông, tức
những sở tri thuần lý cho trở thành một giá trị thực chứng thể nghiệm, biến cái
hiểu biết thành ra hành động minh chứng. Bởi không thể nào bằng những tri kiến
lý tính máy móc mà chỉ trong một sớm một chiều ta có thể dễ dàng thành Phật,
thành Thánh. Ðành rằng trên giáo lý giác ngộ, vấn đề thời gian đôi khi chẳng là
cái gì, nhưng chúng ta cũng phải ý thức rằng cuộc tu không hề đơn giản xong
cuộc ở đầu hôm sớm mai.
.
Do đó điều tôi muốn nhắn
gởi đến các bạn là ngay từ bây giờ, cầm lấy chút hành trang tâm linh, hãy nhớ
cầm nhẹ tay thôi, đừng nắm xiết quá chặt, chúng ta hãy lập tức khởi hành ngay tại
đây và bây giờ. Chúng ta lên đường vào cuộc với chính những kinh nghiệm thực sự
của mình, đừng để mắt tới những mơ mộng vớ vẫn bên đường hay trước mặt. Và nói
gì thì nói, chúng ta phải lập tức khởi sự hành trình. Ðừng e sợ gì cả, hãy nhìn
lại túi hành lý của mình đi, chúng ta đã có qua nhiều thứ cần thiết mặc cho
chúng là những thứ chỉ có thể sử dụng ngắn hạn, nhưng miễn sao là hữu ích thì
đã quá đủ để ta dấn bước: Ðây là những học giới có giá trị của một cẩm nang
giúp ta tự điều hành đời sống hoạt động thường nhật; đây là một nếp sống giản
đơn dung dị như cây cỏ để ta có thể tự tồn mà không lợi dụng, gây phiền cho bất
cứ ai. Ðây là khả năng sống tự chế có thể giúp ta kiện toàn sức mạnh tâm linh
để chối từ, xoay lưng với những gì hệ lụy có phương hại cho sự an bình của nội
tâm.
Với những kiến giải chính chắn về nghiệp lý, cuộc sống và hoạt động của
chúng ta sẽ được chỉ đạo đúng mức. Chúng ta có lòng từ bi để có thể dễ dàng yêu
thương và phụng sự tha nhân. Tất cả hành trang đó sẽ là tất cả cuộc tu của chúng
ta. Chúng nuôi lớn trong nội tâm ta một trí tuệ sâu sắc và trưởng dưởng trong
trái tim ta một tình thương bao la vô bờ.
Ở đây, tôi muốn nhắc lại
câu nói tuyệt vời của Ngài Lạt-ma Gyalwa Karmapa: "Dầu là một tấm lòng hào
sảng bố thí không tiếc tay hay một niềm tín thành tuyệt đối nơi Phật Pháp cũng
đều chỉ là những hạt cát trên con đường giác ngộ. Vấn đề cấp thiết phải là một
nếp sống thực nghiệm, thể chứng chứ không phải là sự thỏa mãn quá sớm với những
hạt cát bé tí đó."