Cũng như đối với tấm
thân sinh lý, nội tâm của chúng ta luôn phải vật lộn dai dẳng với hàng loạt
những nhức nhối bất toại mà mọi người vẫn thường trực cố ý chối bỏ và giải trừ.
Chính những đau đớn nội tại này đã là những tác nhân quan trọng cho từng cơn
vật vã và xung đột nội tâm của chúng ta. Chúng là một phần lớn thực tại trong
đời sống cảm nghiệm của mỗi người và tồn tại dưới nhiều hình thức: Những cảm
giác bất an, cô đơn, điếm nhục, sợ hãi....
Nhưng làm thế nào để ta
có thể đón nhận chúng một cách trung thực đây, trong khi ai cũng có thói quen
phản ứng đối kháng thực tại một cách nông nổi? Ðối với tất cả những cơn đau tâm
sinh lý, chúng ta hầu như luôn có thái độ đó. Chẳng hạn như khi đối diện với
những cảm giác cô đơn, ta thường có tâm thái chán ghét và bên cạnh đó là ý
hướng khai trừ, trốn chạy. Có biết bao lần trong đời mình, chúng ta chỉ đơn
giản có mỗi một nỗ lực tránh né những thực tại mà mình e sợ, ngán ngẫm. Thái độ
bất mãn trong cảm nghiệm về sự thật hiện hữu chỉ luôn có nguy cơ gây tạo ở ta
những tâm thái phân biệt, chấp thủ đối với mọi sự mà thôi. Vạn sự sẽ đơn giản
biết mấy khi mỗi người cứ bình thản vô tư để,mặc chúng đến và đi mà không hề có
một ý niệm đối kháng nội chiến!
Cái nhức nhối nghiêm
trọng nhất trong các mối khổ tâm có lẽ vẫn là cảm giác bất an, thiếu tự tin. Nó
luôn ám ảnh ta bằng những âu lo vớ vẫn: "Ta phải sống ra sao để có vẻ cởi
mở với mọi người? Nếu thiên hạ cứ biết tỏng về con người thật của ta thì mọi
việc sẽ ra sao?..."
Chính cảm giác tâm lý bất an này sẽ tạo nên ở ta một
ảo tượng ngả chấp nguy hiểm đối với thế giới, bởi ta luôn nghĩ tới mục
đích"được cuộc đời chào đón và yêu thương". Có điều là cái ảo tượng
ngu ngơ đó luôn được chúng ta che đậy, dấu kín bằng đủ thứ ngụy trang.
Chỉ cần đôi phút tỉnh
thức nhìn thẳng vào từng tâm trạng bất an và tự ti, thiếu tự tin đó, ta sẽ thấy
rằng chúng thật ra chẳng có gì dính dấp để cần thiết phải biết đến chuyện riêng
tư của chúng ta đâu. Thay vào đó, tốt hơn ta nên quay về với các cảm nghiệm tự
thân của chính mình. Nhưng hãy khéo đấy, biết đâu chừng ta chỉ có được cái trăn
trở đối với bản thân mà không tự biết đón nhận và thương mình một cách chính
chắn, đúng nghĩa theo thiền lý.
Nếu chúng ta biết kịp
thời cảm nghiệm trọn vẹn những tâm thái bất an, thiếu tự ti và biết sống trung
thực với chính bản thân mình thì chắc chắn chúng ta sẽ tự tìm thấy mình qua cái
bóng phản chiếu thì coi như chúng ta vẫn còn bị vùi lấp, che kín trong trí tuệ
hiện tại. Nếu được hãy tạm thời xử lý những tâm trạng đó bằng cách thư giản
từng hơi thở để mình được thoải mái hơn rồi từ đó chúng ta bắt đầu mở rộng cánh
cửa tình thương đối với chính mình và tha nhân.
Như đã nói, chúng ta
luôn có khuynh hướng trốn chạy, chối bỏ tất cả những đau đớn của tâm sinh lý
bằng đủ mọi cách. Ðối với những cảm giác cực lòng của tâm lý ta thường nhớ đến
những biện pháp đối đầu mù quáng như một thái độ khước từ, những hoạt động điên
cuồng nào đó hoặc những hình thức ảo tượng ngã chấp. Một trong những nhân tố
tâm lý có phương hại đến trí tuệ như thật của chúng ta chính là cảm giác sợ
hãi. Và chính vì nó đã gần như trở thành một thứ bản năng tâm lý mà hầu hết
chúng ta đều không hề nghĩ đến việc khám phá thật sự của nó nên chúng ta thường
xuyên bị nó điều động, chi phối một cách vô thức.
Chính Trang Tử cũng đã
từng nói "Những lo sợ nhỏ thì tạo nên các e ngại, những lo sợ lớn thì tạo
nên sự hoảng loạn". Khi một sự sợ hãi vừa xuất hiện, bất luận là sự sợ hãi
về cái gì - kể cả sự sợ chết, điều cần thiết là chúng ta bắt buộc phải thực
hiện cho bằng được đó là sự phơi mở trọn vẹn ngay chính nỗi sợ đó: Nó hiện đang
ra sao? Cảm giác sinh lý của chúng ta lúc này thế nào? Chúng từ đâu đến? Trong
nội tâm đầu nhận diện được sự sợ hãi cũng có nghĩa là ta cũng đã thấy được đặc
tính phù du hữu cơ của nó, đồng thời khi ta phơi mở nội tâm mình để nhìn ngắm
nó bằng một giao hòa và mát mẻ sau sắc thì lúc này coi như tất cả những khái
niệm ngã chấp về cái Tôi, của Tôi cũng biến mất. Vấn đề sợ hãi đến lúc này coi
như tạm ổn.
Từ cơ sở của tỉnh thức
và thái độ đón nhận thực tại một cách trung thực, khách quan này, chúng ta có
thể tự chọn lựa cho mình một trình độ trí tuệ biền biệt nào đó của tỉnh thức.
Ðôi khi điều đó được thực hiện trong một thiền khóa với những đề mục cùng các
điều kiện lý tưởng nào đó nhưng cũng có lúc, công phu này lại được thực hiện
bằng sự quay về nhìn ngắm vào ngay chính sự sợ hãi mà mình đã và đang đối đầu.
Ý chí và tinh thần trách nhiệm của chúng ta bây giờ cũng được tăng cường mãnh
liệt hơn, vì những động cơ nỗ lực của bản thân không còn bị hạn chế trong ảnh
hưởng của lòng sợ hãi qua tâm thái đối kháng nữa.
Chúng ta đã học được
cách hòa giải đối với sự sợ hãi để công phu thiền định có thể giúp ta khám phá
ra được đích điểm vươn tới của ý thức chính mình, xem mình thực ra muốn làm
điều gì, phơi mở cái gì. Nếu cứ tiếp tục trốn chạy lòng sợ hãi trước mắt, coi
như chúng ta cũng đã tự xây dựng một rào cản cảnh phòng đối với các sự sợ hãi
chưa xảy đến. Mà điều này vừa chẳng những không thể thực hiện được mà lại có
nguy cơ giới hạn và giam hảm đời sống nội tâm của chúng ta. Ðiều đó cũng có
nghĩa là ta đã tự khép kín cõi lòng, đóng chặt khả năng hiển hiện của tình
thương và khả năng giao hòa, đồng cảm với thực tại, từ nội thân đến ngoại giới.
Cũng như đối với những
nỗi đau tâm sinh lý của bản thân, chúng ta còn có biết bao tình huống bắt buộc
phải tự có một thái độ đối kháng, chẳng hạn về vấn đề nhân sự và những hoàn
cảnh éo le trong cuộc sống gia đình hoặc xã hội. Bởi ta đừng bao giờ quên rằng,
trong thế giới tình cảm thường nhật vẫn luôn có rất nhiều đối tượng mà mình ác
cảm trong giao tiếp đối ngoại, cũng có không ít những tình huống dễ khiến ta
bất mãn, khó chịu. Thông thường, trước một đối tượng "đáng ghét",
chúng ta vẫn có phản ứng tự nhiên là giữ một thái độ đối lập với từng khía cạnh
nhân cách và tập tính của họ, để rồi tự mình cầm tù trong chính thành kiến ác
cảm mang tính đối kháng, ngăn cách với người ta.
Trong khi đó, nếu tự
biết điều động nội tâm mình ra khỏi thái độ tâm lý bản năng này và tự phơi mở
trái tim để bao dung tha nhân - một trình độ nội tâm không mấy đắt đỏ mà đặc
tính là độ lượng và hòa giải - thì chúng ta có thể dễ dàng xót thương họ nhiều
hơn, thông qua sự thông cảm và trắc ẩn về những đau khổ kín đáo mà ai cũng có.
Chúng ta có thể dễ dàng tha thứ cho họ khi hiểu được một điều hết sức quan
trọng rằng tất cả những gì là đáng ghét của đối phương thực ra chỉ là những
phản ứng tự nhiên của họ trước các khổ lụy, mà nhiều khi chỉ là một cách vô
thức mà thôi. Với một cảm nghiệm phơi mở như vậy về những đau khổ của người
khác, kể cả đối với những cá nhân mà ta vẫn xem là đối phương, đối thủ - tình
thương vị tha tự nhiên sẽ tìm đến với chúng ta.