Hiểu được nội tâm của
chính mình là con đường tối ưu để thấu suốt đời sống. Con người và mọi vận động
tồn tại của chúng ta luôn phát hiện từ ý thức. Tại sao mỗi người chúng ta đều
có riêng một nếp sống, một thái độ tình cảm, một kiểu đối giao nhất định nào đó
đối với thế giới quanh mình? Tất cả đều đi ra từ mỗi một thế giới nội tâm, tên
gọi chung cho những tư duy, nhãn quan và cảm tính của mỗi người. Nói khác đi,
chúng ta chỉ là một phóng ảnh của ý thức. Ðể thấy rõ đều đó, thật đơn giản, ta
chỉ việc bỏ ra ít thời giờ tĩnh lặng rồi nhìn ngắm, lắng nghe nội tâm mình sinh
diễn, hoạt động.
Thực hiện được công phu
đó, chúng ta sẽ lập tức nhận thấy rằng nội tâm mình chỉ là một chuỗi dài vận
động liên tục, thường trực: lúc này nó bình hòa, yên lắng để rồi giây phút khác
lại bốc cháy với những tham sân. Cứ thế! Bản chất của nội tâm chúng ta mãi hoài
là những biến động, sự tồn tại của nó được tái hiện qua đủ thứ hình thức kinh
nghiệm. Nó được hình thành qua từng thời khắc đối xúc trần cảnh, qua từng thái
độ cảm thức và phản ứng của chúng ta, những ảo tượng của chúng ta về thế giới
ngoại tại. Có nghiêm cẩn quan sát nội tâm cùng các động lực cấu thiết nó, chúng
ta sẽ đọc được qua đó lắm điều, chẳng hạn cái gì đã khiến ta ưu phiền cực lòng,
cái gì giới hạn tâm hồn chúng ta cho chật hẹp tù đày cũng như những động cơ nào
chắp cánh cho tâm hồn ta vươn tới khả năng bao dung lồng lộng để từ đó chúng ta
được tự do và dễ dàng yêu thương trần gian với tất cả sinh linh khổ lụy của nó.
Nhưng để có được cái
nhìn thấu suốt đó, điều tiên quyết là ta phải tự trang bị một sức mạnh tâm linh
nhất định nào đó: vững chải và kiên định và cho đến khi nào chúng ta vẫn còn bị
ngăn trở bởi những thành kiến, những xung động tình cảm đối đãi thì cứ xem như
chúng ta vẫn còn bị cuốn hút trong cơn lốc xoáy của những sinh hoạt phù phiếm
cùng các phản ứng nội tâm xuẩn động, mà điều đó lại là một chướng ngại nghiêm
trọng cho khả năng phản tỉnh cùng trí tuệ giải thoát. Vậy vấn đề tối hậu ở đây
là để bắt đầu một trí tuệ cần thiết cho đường tu, ta phải biết ổn định mọi sự
bằng cách giàn xếp cho một nội tâm bất nhị.
Tông chỉ của Thiền định
là quân bình hoá nội tâm. Chúng ta điều chế nội tâm mình vào sự
tỉnh thức và chuyên nhất, đồng thời làm trung hòa sự tác niệm sao cho đúng mức:
không lơi lỏng hoặc quá phấn khích. Từ cơ sở tĩnh lặng này, chúng ta mới có thể
nhìn thấy xuyên suốt và sâu sắc tất cả kinh nghiệm nội tại. Chúng ta sẽ nhờ vậy
mà kịp thời ý thức được tất cả những gì vừa xẩy đến cho mình và cả thái độ tiếp
nhận của bản thân đối với chúng. Chúng ta tự mổ xẻ chính mình ngay trong chính
cái thực tại hiện hữu và thậm chí buông bỏ toàn triệt tất cả những ảo tưởng,
quan niệm lý tính. Trình độ tỉnh thức tinh xác này sẽ mang lại một khả năng tâm
linh sâu thẳm vì tính chặt chẻ của nó: Không một thực tại lớn nhỏ nào không
được chăm chú.
Trong từng phút, nội tâm
hành giả luôn được giữ thăng bằng vì chúng ta đã biết phơi mở từng loạt kinh
nghiệm một cách vô cảm, khách quan. Chúng ta nhìn ngắm tường tận mọi sự đang
xảy ra trong từng chớp mắt, phân biệt rạch ròi từng cấu tố của danh sắc, cũng
như nắm bắt được các quy luật vận động thật ra quá rõ ràng của chúng. Từ ngữ
"Dhamma" trong tiếng Pàli (Dharma trong Sanskrit) còn có nghĩa là
"quy luật", cho nên ở đây ta có thể hiểu rằng tất cả pháp môn tu hành
đều có chung một lý tưởng là nhìn ngắm vào các quy luật, mà ở đây là các quy luật
về sự hiện hữu của chúng ta.
Một trong những quy luật
cơ bản nhất mà chúng ta cần ý thức trước tiên chính là quy luật Nghiệp Báo. Một
cách nôm na, đó là quy luật xác định rằng mọi hành sự lớn nhỏ của chúng ta
trong mỗi phút giây của đời sống thường nhật đều luôn để lại một hậu quả nhất
định nào đó, không một hoạt động nào là vô nghiệp, đồng thời quy luật này còn
dạy ta hiểu rằng không một cái gì trên đời do ngẫu nhiên mà hiện hữu cả. Có
chiêm ngắm bản chất các kinh nghiệm bản thân, ta mới bắt đầu có dịp thấy rõ tác
động của nghiệp báo đối với đời sống chính mình ra sao. Nghiệp lý trong lòng
hành giả lúc này đã là môt quy luật sinh động, chứ không chỉ đơn giản là một
tín điều trừu tượng hay một học thuyết để tiêu sầu nữa. Với chừng đó bản lĩnh
ta sẽ ý thức đúng đắn giá trị của mỗi mỗi tư tưởng bằng tất cả tinh thần trách
nhiệm.
Hãy nhớ rằng kinh nghiệm
nội tâm của chúng ta luôn sẳn sàng bị chi phối bởi một cảm giác nhất thời nào
đó. Tất cả chuyện đời buồn vui cùng những kích xúc tốt xấu của tâm lý đều do chính
chúng ta đánh giá và tự quy định. Cùng đứng trước một sự cố, một sự cố bất trắc
nào đó chẳng hạn, hai thái độ nội tâm khác nhau sẽ có lối xử lý không giống
nhau: Một nụ cười bình thản bao dung hay một chút nhíu mày chua chát. Ðó chính
là ý nghĩa quan trọng của các cấu tố tâm lý đối với kinh nghiệm nội tâm của
chúng ta vậy. Ta có thể gọi đó là sự tồn tại hay sự can dự của nghiệp lý, vì rõ
ràng là tác động và hậu quả phản ứng trong chính thế giới nội tâm chúng ta đã
thường trực hiện hữu từng thoáng chốc.
Ở đây chúng ta còn có
một con đường khác để kinh nghiệm về quy luật nghiệp lý. Trong từng phút giây
sống thiền định, nghiệp tính luôn hiển hiện qua những ấn tượng tâm lý tồn đọng
của chúng ta về những sở hành quá khứ. Rồi chỉ bằng một ít tĩnh tâm của chúng
ta, tất cả những ám ảnh đó sẽ tự khắc lộ diện, thậm chí bùng dậy một cách mãnh
liệt để chúng ta có thể trực diện nhìn ngắm chúng như đang soi mình trước một
tấm gương, mà phản ảnh của tấm gương nội tại này chính là chúng ta.
Những hồi ức quá khứ có
ra sao đi nữa, khiến ta buồn hay làm ta vui, ta cũng phải đối mặt với chúng
bằng tất cả ý thức bình đạm, sáng suốt nhất. Với tâm thái tế nhị và an nhiên
này, cảm thức kinh nghiệm của chúng ta về nghiệp lý (mà ở đây là các tiền nghệp
cùng hậu quả của chúng) có thể chính chắn hơn nhiều.
Chúng ta kinh nghiệm
được nghiệp tính ngay trong chính những cấu tố tâm lý làm nên kinh nghiệm thực
tại của mình xuyên qua những tư phong ý thức cùng các kích xúc cảm tính bản
thân. Chúng ta có thể nhìn thấy vận động của nghiệp lý khi biết khách quan và
tỉnh táo nhìn lại toàn bộ quá khứ của mình. Bất cứ khi nào ta cũng có thể thực
hiện việc đó: Trong giờ thiền định chính thức hay một phút giây yên tĩnh, thoải
mái nào đó của tâm hồn. Chúng ta có thể định nghĩa Nghiệp lý là một quy trình
vận động và phát triển của những tập quán với những quy mô, giới hạn lớn nhỏ
nào đó bất luận. Và từng nghiệp nhân luôn tạo ra một nghiệp quả đối xứng. Nói
cách khác, hệ quả phản ứng ở đây luôn phản ảnh chính xác sức mạnh của lực tác
động. Tới đây thì chúng ta còn có một cách hiểu nữa về vấn đề nghiệp báo như
một định nghĩa chung nhất rằng, bất cứ một hoạt động tâm vật lý nào của con
người cũng đều di hậu một hệ quả tương ứng như quan hệ liên lũy giữa một hạt
giống với các hoa trái sau đó của nó.