Trong suốt giáo lý giải
thoát của mình, đặc biệt khi nói về thiền định, Ðức Phật thường nhắc đến năm
yếu tố đạo lực mang ý nghĩa đào dưỡng nội tâm và kết tựu quả vị giải thoát.
Pháp môn thiền định chính là công phu trưởng dưỡng năm nguồn đạo lực đó ngay
trong từng phút giây tu tập thường nhật của chúng ta.
Niềm tin (Tín)
Nguồn đạo lực đầu tiên ở
đây là đức tin. Ðại khái, đó là một trạng thái tâm lý có khuynh hướng đi tìm
một sự tín nhiệm, tin tưởng và hâm mộ. Ðức tin hay niềm tin luôn có rất nhiều
trường hợp. Nó có thể đến khi chúng ta bắt đầu được một đối tượng nào đó khả dĩ
khích động và cuốn hút mình. Ðó có thể là một ảnh tượng tôn giáo, một tác phẩm
nghệ thuật, một buổi nói chuyện, một bối cành thiên nhiên hay một cá nhân nào
đó tự có một hấp lực đặc biệt mà do tình cờ đánh trúng vào nhược điểm tâm lý
của chúng ta. Hình thái đức tin này đôi khi vẫn có thể mang lại cho chúng ta
những tác động tốt về tâm lý, tuy nhiên, nếu thiếu sự can thiệp của trí tuệ thì
nó rất dễ dàng một thứ cuồng tín, tức niềm tin mù quáng.
Một đức tin ở trình độ
cao hơn, là thứ niềm tin được khai sinh từ sự phán đoán của trí tuệ, một thứ
đức tin được hình thành qua chính trí tuệ biện biệt, kiểm tra, thể hiện của bản
thân. Niềm tin này gọi theo từ Phật học là Chánh Tín bởi nó hiển hiện và song
hành với trí tuệ tự chứng. Chẳng hạn đó là niềm tin của chúng ta về những giáo
lý căn bản của Ðức Phật như vấn đề Tam Tướng, hoặc niềm tin vào khả năng giác
ngộ của Ðức Phật cùng chư vị Thánh Nhân khác, thông qua trí tuệ thực chứng (dù
chỉ ở mức tương đối và mang tính lý thuyết) của mình. Ðó là một thứ niềm tin có
được từ khả năng nội quán của chính bản thân chứ không phải thứ niềm tin thành
tựu từ những bài giáo lý học thuộc lòng.
Ngoài hai trường hợp
niềm tin trên, chúng ta còn có thể thấy thêm một kiểu niềm tin khác, không do
những ảnh tượng hình thức mà cũng chẳng đi ra từ thứ trí tuệ lý tính, mà lại
hình thành trực tiếp ngay từ đời sống thực tế. Không bị giới hạn bởi bất cứ
không gian và thời gian nào, niềm tin này hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng xử
lý thực tại của chúng ta xuyên qua trình độ kiến giải của bản thân. Có lẽ chỉ ở
Á Châu, chúng ta mới may ra bắt gặp được thứ niềm tin này và dĩ nhiên tính về
số lượng hẳn là không được nhiều lắm. Nhưng dù sao chúng ta cũng phải trân
trọng và nghiêm túc để thấy rằng trong vô số những con người tháng ngày chỉ
biết bôn ba, bươn chải với vô vàn tục sự như những chiếc lá vô tri bị cuốn hút
trong cơn lốc tạp loạn của những nhu cầu sống, thì ở vài nơi trong đại lục mênh
mông đó vẫn luôn có những cá nhân im lặng ngồi lại một mình để cảm nhận và lắng
nghe từng biến động của thực tại, những dòng chảy triền miên của cuộc thế quanh
mình.
Chúng ta sanh ra rồi lớn lên, suốt đời đi tìm những ước vọng, sống đối
đầu, lệ thuộc vào biết bao vấn đề để rồi sau cùng, có ai thoát được những cơn
đau bịnh hay tuổi già và cuối cùng là cái chết. Thực ra đã từ lâu lắm rồi và
không chỉ riêng ở Châu Á, có biết bao người đã tự thao thức, trở trăn với những
câu hỏi: Tất cả rồi sẽ đi về đâu? Có phải mọi người luôn đi theo con đường mà
chính mình quyết định lấy hay phải nhờ đến một bàn tay nào đó can thiệp? Có thể
nói đó chính là những tiêu điểm khởi sự cho trí tuệ tra vấn của tất cả chúng
ta. Khuynh hướng tra vấn đó là một hành trình về một lời giải đáp cho bản thân
chúng ta tròn cuộc đời vốn phức loạn và âm u này. Với niềm tin có từ một trí
tuệ nội quán sâu sắc, mỗi ứng xử của chúng ta trong đời sống đều sẽ là từng
khoảnh khắc tu tập. Quả thật không có một khoảng cách nào nếu như mỗi người
sống đúng như vậy. Chúng ta đừng bao giờ để đời sống mình bị điều động bởi
những âu lo và ham muốn, mà thay vào đó ta có thể tận dụng từng phút giây thấu
suốt thực tại để mỗi giây phút sống là một vòng quay của chiếc bánh xe hướng về
mục đích phát triển trí tuệ giải thoát.
Khi chúng ta tự biết
phơi mở tất cả cảm nghiệm của bản thân để đón nhận thực tại một cách khách quan
không thiên vị, một thái độ ý thức nằm ngoài mọi lập trường tư tưởng chủ quan
và cảm giác xuẩn động thì Chánh Tín của chúng ta sẽ trở nên mãnh liệt hơn. Càng
hướng trí tuệ thiền định của mình vào thế giới nội tại một cách sâu sắc và chín
chắn thì càng lúc niềm tin của chúng ta sẽ càng trở nên độc lập và hùng hậu
trước mọi thử thách ngoại tại. Có cảm nghiệm được sức mạnh của một niềm tin bất
động, ta sẽ thấy rằng sự chín chắn của nó không chỉ được hình thành bằng tình
cảm và trí tuệ từ chương nữa mà bên cạnh đó nó được khai sinh từ một khả năng
trí tuệ trực giác sâu thẳm nhất. Niềm tin ở trình độ này giống như một viên bảo
ngọc có tác dụng như những viên Tỵ Trần Châu, Tịnh Thủy Châu mà khi được ném
xuống một hồ nước, nó có thể làm cho nước hồ trở nên trong sạch hơn. Niềm tin
là một sức mạnh của nội tâm và có tác năng tương tự như vậy: Nó giúp ta giàn
xếp những nghi hoặc và bức xúc, tạo ra một môi trường tâm lý năng động, kiên
định và thanh tịnh.
Ðại khái, chúng ta phải
tự biết nuôi lớn niềm tin của mình bằng vô vàn công phu học hỏi để mở rộng và
giao hòa tâm hồn mình với tất cả những gì thực sự cần thiết. Chúng ta hầu như
luôn bị vật vã bởi biết bao là nghi hoặc ngay trong chính vấn đề niềm tin của
mình. Tất cả chỉ vì chúng ta luôn tự ngăn trở khả năng phơi mở nội tâm của mình
bằng những phân vân trong trong từng cảm nghiệm: Chấp nhận rồi chối bỏ, chối bỏ
rồi lại chấp nhận. Gặp phải trường hợp đó, đối với những cảm nghiệm tích cực,
ta hãy cố gắng duy trì, và liên tục làm chúng tái hiện. Riêng đối với những cảm
nghiệm tiêu cực, có phương hại cho niềm tin, thì chúng ta hãy cố gắng ngăn trừ
ngay khi chúng tiếp tục quay lại.
Nói một cách khác, cuộc tu của chúng ta (đặc
biệt trong công phu nuôi dưỡng niềm tin) là cả một cuộc chiến dàn xếp vấn đề
thời gian, những cảm nghiệm mang tính ám ảnh về quá khứ với tương lai nhiều hơn
là hiện tại. Chúng ta thường bị mắc bẩy trong những cảm giác an lành, thoải mái
của thiền định. Ðiều đó rất dễ xảy ra, bởi chỉ với đôi ba phút định tĩnh và vô
tư là chúng ta đã có thể cảm nhận được những cảm giác kỳ diệu, hoàn toàn khác
hẳn với những cảm giác khói lạc thông thường.
Thế rồi, nếu thiếu chút cảnh giác
và tỉnh thức chúng ta lại tiếp tục đi tìm nó, bởi cảm giác nào dù là thiền lạc
cũng luôn ngắn hạn cả. Nếu chẳng may, cùng lúc với sự vắng mặt của cơn thiền
lạc đó, mà chúng ta vẫn chưa tìm thấy lại được cảm giác khác tương tự thì lúc
này coi như hành giả tự chuốc lấy cho mình sự đau khổ, bối rối và tiếc nuối.
Vấn đề còn tệ hại hơn nữa nếu như lúc này chúng ta cố tình lãng phí thời gian
ngắm nhìn thực tại trước mắt để tìm lại những gì đã qua đi. Vượt qua được cuộc
chiến này coi như ta đã tìm thấy được một liệu pháp cho nội tâm, đồng thời làm
trưởng dưỡng được niềm tin cần thiết cho cuộc tu và cả lý tưởng thiền định.
Ở mỗi cảm nghiệm về thực
tại, vấn đề không phải nằm ở chổ chúng làm cho ta vừa lòng hay bất toại, mà chỉ
đơn giản là những cái luôn sinh hoá và biến diệt. Cái gọi là "Tôi, chúng
ta" thực ra chỉ là một quy trình tồn tại liên tục và tự nhiên trong mỗi mỗi
giây phút. Nỗ lực tìm lại những cảm giác thiền lạc đã qua đi, chúng ta vô tình
đã tự trở thành những tù nhân của những gì mà mình thật ra vẫn hiểu biết một
cách rõ ràng. Thay vào đó chúng ta nên luôn xem mình như đang có mặt trong một
cuộc hành trình dài, với đích đến là những miền xa lạ mà mình chưa hề đặt chân
tới. Từ đó bạn sẽ tự mình tìm lên những đỉnh núi ngút ngàn mà từ cảnh quan cho
đến khí hậu đều thật tuyệt vời. Và cho dầu cuộc thám hiểm này xem ra có vẻ dị
thường đến mấy đi nữa, ta vẫn hãy cứ tiếp tục. Lối đi này sẽ dẫn bước cho ta
đến những lối đi khác: Từ núi cao xuống thung lũng, đầm lầy rồi những cánh
rừng... Tất cả mọi điểm chỉ đơn giản là những nơi mà mình cần phải thám hiểm
thôi. Nhưng để có được tâm thái hồn nhiên đó, ta phải có những bước chân vô tư:
Không tiếc nuối những gì đã lùi lại sau lưng mình, không chủ quan so sánh nơi
này, nơi khác mà cũng chẳng chán ghét hoặc bất mãn bất cứ nơi đâu...
Niềm tin đang được nói
đến ở đây chính là sự tin tưởng, tự tin vào chính dòng sống của mình, đó là một
ý thức nằm ngoài mọi âu lo và ham muốn, một tâm thái vô tư tự giác trong từng
giây phút một.