Tuesday, March 1, 2016

Quán về tứ diệu đế

 Bước kế tiếp, thực tập quán niệm về bốn sự thật cao quý.

- Khổ đế

Sự thật cao quý thứ nhất là khổ đế, tức sự khổ đau của con người: "khi sự kiện là đau khổ, hành giả quán niệm đây là đau khổ".

Tất cả những gì trên thế gian vô thường nầy đều là khổ. Mọi sự việc luôn biến dịch đổi. Vạn vật đến chỗ cùng sẽ biến đổi, mọi vật đến điểm cuối sẽ quay lại. Ðó là chân lý biến dịch vô thường của vạn vật. Và bởi sự vô thường biến đổi luôn có mặt trên cuộc đời đã gây tạo biết bao đổi thay, từ sinh khởi, rồi biến thể, rồi hư hoại, do đó nên có sự đau khổ. Khi đã biến thể, đã hư hoại, tất phải tan biến với thời gian nên cuối cùng tất cả đều là không. Tất cả mọi sự thể đều không có tự tánh riêng biệt.

Khi nhìn sự việc, quán chiếu sự việc và cảm nhận sự việc là đau khổ, ta ý thức rõ ràng "đây là đau khổ". Sự đau khổ của con người kể cả tinh thần lẫn thể xác có tới 84.000 thứ phiền não, không thể nào nói hết cùng tận được. Từ lúc mới sinh ra, ngây dại cất tiếng khóc chào đời thì đó đã là khổ rồi. Lớn lên, già yếu, bệnh tật, chết đi... tất cả đều là khổ. Người mình thương mà phải xa lìa cũng là khổ. Những mong cầu mơ ước không đạt được cũng là khổ. Kẻ oán thù mà phải sống chung cũng là khổ. Những khống chế buộc ràng gắn liền với thân xác ngũ uẩn đây cũng đều là khổ.

Những khi mắt chứng kiến sự kiện xảy ra trong cuộc đời, cảm nhận sự khổ của chính mình, ta tỉnh biết ghi nhận về điều đó và tập trung quán chiếu về sự khổ. Biết rằng "đây là đau khổ". Cố gắng duy trì hơi thở trong ý thức. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Dùng hơi thở làm nền tảng để nuôi giữ sự tỉnh thức, để nhìn sâu vào sự kiện, để thấy rõ sự đau khổ và gốc nguồn của đau khổ.

- Tập đế

Chân lý cao cả thứ hai là tập đế, tức nguyên nhân của sự đau khổ: "khi sự kiện là nguyên nhân đưa đến đau khổ, hành giả quán niệm đây là nguyên nhân đưa đến đau khổ".

Khi quán chiếu về sự khổ, ta nhìn thấy được nguyên nhân đưa đến sự đau khổ cho con người. Những ái dục tham mê, những oán hờn ganh ghét, những si mờ chấp ngã, những nghi oan ngờ vực, những ngã mạn cao ngạo, những ác kiến tà ý... Tất cả vậy đều là những nguyên nhân gây tạo nên sự đau khổ cho con người.

Ngay cả sự chấp dính buộc ràng của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý với hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng cũng đều là những khổ đau dày xé tâm linh con người. Trong kinh Phú lâu na, Phật đã thuyết: "mắt thấy sắc đuổi theo chấp chặt là đau khổ, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp, tất cả chấp chặt đuổi theo đều là đau khổ".

Cũng như thân xác do tứ đại hợp thành, do duyên mà sinh khởi, hết duyên lại hoại tàn. Nhưng nếu ta cứ chấp chặt vào đó và cho thân xác là mãi của ta thì đó là u mê khổ ải. Cũng như cố chấp mà nhận lầm vọng tưởng là tâm ta, mãi sống với những nghĩ suy tham cuồng, gây tạo biết bao nghiệp chướng ưu phiền. Ðau khổ cũng bởi từ sự chấp chặt cuồng mê nơi thân tâm mãi mãi không thôi ("ấm giới sáu trần dậy, ách nạn nghiệp theo kề" - Thiếu thất lục môn).

Khi cảm nhận sự khổ, hãy quán chiếu để nhìn thấy rõ nguyên nhân đã đưa đến sự đau khổ cho con người. Duy trì sự quán niệm trong hơi thở ý thức. Ta biết ta đang thở vào. Ta biết ta đang thở ra. Ta chú tâm quán sát mọi gốc nguồn của sự kiện, để thấy rõ bản chất của đau khổ và nguyên nhân đã đưa đến đau khổ. Ta quán niệm "đây là nguyên nhân đưa đến đau khổ".

- Diệt đế

Chân lý cao cả thứ ba là diệt đế, tức sự chấm dứt của đau khổ: "khi sự kiện là sự chấm dứt đau khổ, hành giả quán niệm đây là sự chấm dứt đau khổ".

Do bởi quán chiếu về đau khổ, ta nhận hiểu và thấy rõ gốc nguồn của đau khổ, nguyên nhân đã đưa đến sự đau khổ cho con người. Ngay đây, nếu bản thân nỗ lực tiêu trừ những tà kiến của sự chấp ngã thì tâm trí cũng sẽ vơi đi ít nhiều thống khổ.

Khi đau khổ đã thật sự chấm dứt thì con đường giải thoát là trước mắt. Ðiều đó được hiểu như một chân lý niết bàn tuyệt đối của tâm linh con người. Ðó là sự bình an và tự tại vô ngại của tâm thức.

Chúng ta, nếu như cứ mãi chấp chặt xác thân là của ta chơn thật, mãi đắm mê thân xác, mãi bám víu và tiếc thương thì ta vẫn mãi khổ đau phiền não. Sự bám víu vào thân xác cũng là gốc nguồn của sự sợ hãi. Như trong Đạo đức kinh - "ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn!" (ta sở dĩ có lo lớn là vì ta có thân, nếu ta không có thân, ta nào có lo). Hãy nhận thức rằng: Sống là sống trong cuộc đời, là sống với xác thân đây, nhưng tâm trí không bám chặt vào tham đắm, không quay cuồng trong bão gió lòng đời. Sống là để sống trong đời. Không nhàm chán sự sống. Không mê lụy sắc thân. Ðó là sống đúng với ý nghĩa của cuộc sống làm người.

Thân xác đây, theo duyên mà hình thành, hết duyên mà hư hủy. Có đó rồi mất nó. Biết vậy, nên tâm đừng quá nuối tiếc khi phải mất thân. Ðây không những với cái nhìn về thân ta mà ngay cả cái nhìn của ta đối với người thân ta cũng thế. Kẻ sinh ra, kẻ mất đi, tất cả là đau khổ, diệt diệt sinh sinh vô cùng tận ("sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ" - sinh diệt biến thay đổi dời, hư giả cũng không có chủ thể - kinh Bát đại nhân giác).

Do bởi nhận thức như vậy nên khi thân nầy sắp mất đi, ta không mấy não phiền hối tiếc. Hãy dửng dưng mà ra đi. Hãy an nhiên mà trở về. Hãy thực tập quán niệm về sự sống và sự chết.

Khi người thân ta mất đi, ta biết ta đã mất thể xác người, đã mất tiếng nói và hành động của người. Và, bởi tình luyến ái, ta sầu bi, ta khổ ải. Ðó có sinh, đó có mất, cũng theo duyên mà tạo dựng, cũng tùy duyên mà hư hoại. Tất cả đều vô thường.
Hãy nhìn cuộc đời bằng ánh mắt vô thường. Hãy nhận biết sự việc như vậy. Những người thân ta rồi cũng sẽ ra đi. Ta thản nhiên nhìn sự việc với con mắt hiểu và biết, không quá khổ đau sầu muộn. Hãy hằng luôn nhắn nhủ với chính mình: "người có đến và người sẽ ra đi, ta đã đến và rồi ta sẽ đi, há luống bận tâm chi những vô thường!"

Do bởi ý thức được sự vô thường của cuộc đời, khi những người thân của ta còn sống thì ta nên biết quý trọng những giây phút còn có mặt của người bên ta. Nếu lỡ ngày mai, khi người đã ra đi, thâm tình đã vỡ, thì hối tiếc chi chữ hiếu chưa kịp báo đền, chữ ân chưa kịp trả, tất cả còn lại là suối lệ sầu vương trong thương tiếc muộn màng.

Trong giai đoạn đầu tu tập, chúng ta đây vẫn là con người đầy ắp những ray rứt sầu tư. Nếu như, những người thân của ta một mai ra đi, thân ta chắc cũng phải úa sầu hoen lệ. Nhưng bởi hiểu và biết gốc nguồn của ái dục si mê, rễ nguồn của đau khổ muôn đời, chúng ta có thể giảm bớt được ít nhiều mức độ sầu bi. Ðược vậy thì mục đích hành thiền đây cũng đã gặt hái được ít nhiều lợi ích lắm thay! Hãy cố gắng tinh chuyên hành trì cho đến giây phút cuối cùng của cuộc sống thì định lực đã được tu bồi vững mạnh. Và rồi, khi sự việc đến, cứ thanh thản ra đi, cứ an nhiên trở về, như gió bay xa, như mây trở lại.

- Ðạo đế

Chân lý cuối cùng là đạo đế, tức con đường diệt khổ để giải thoát tâm linh: "khi sự kiện là con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ, hành giả quán niệm đây là con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ".

Khi nhìn thấy sự đau khổ, cảm nhận được sự đau khổ, ta nhận biết "đây là đau khổ". Quán chiếu về sự kiện để thấy rõ đâu là gốc nguồn của đau khổ. An trú tâm trong sự quán niệm "đây là nguyên nhân đưa đến đau khổ". Và khi sự kiện là con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ, ta quán niệm và ghi nhận "đây là con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ".

Ta an trú trong sự quán niệm "có bốn sự thật cao quý", như vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của các đối tượng của tâm thức.

Hãy nỗ lực tinh chuyên hành trì sống tỉnh thức trong từng mỗi phút giây. Cố gắng tinh tấn thọ trì kinh điển, thực tập thiền định, để chiếu soi bước đường trí tuệ, đem giới luật và yếu nghĩa kinh pháp áp dụng vào con đường tu tập cho bản thân.


Hãy thực tập sống tỉnh thức và sống với tâm nguyện: "nâng cao ngọn lửa hồng trí tuệ, để giải thoát cho tâm linh chính mình, và để cùng chiếu soi đến tất cả những ai đang cùng trên con thuyền trôi dạt hữu duyên".