Monday, February 29, 2016

Chánh niệm

    Yếu tố giác ngộ đầu tiên là chánh niệm. Chánh niệm là ý thức sáng suốt và giác tỉnh về những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.

Những khi tâm thức có chánh niệm, ý thức mình đang có chánh niệm. Trong pháp hành thiền tứ niệm xứ, sự quán niệm phải được dựa trên tinh thần vô ngã, không có sự liên hệ buộc ràng với cái nhìn về "ta" "của ta". Ðó là vấn đề căn bản của sự ghi nhận sáng suốt và quán sát khách quan, rất quan trọng cho sự hành trì tu tập đúng phương thức. Ðây cũng là điều căn bản trong việc thực tập vô ngã - "học đạo của Phật là học về chính mình, học về chính mình là quên đi chính mình".

Khi tâm thức không có chánh niệm, ta cũng nhận biết về điều đó. Duy trì hơi thở trong ý thức, nhận biết tâm thức mình không có chánh niệm. Khi có ý thức sáng suốt để nhận biết về việc mình không có chánh niệm thì ngay phút giây đó chánh niệm đã đang bắt đầu được thiết lập trong tâm thức. Hãy tỉnh biết với ý thức chánh niệm ngay đó để nhận biết rằng tâm mình đang có chánh niệm. Ðây chính là giây phút tỉnh thức để quán chiếu về yếu tố chánh niệm đang phát sinh. Hãy khách quan quán sát và ghi nhận từ khi chánh niệm chưa phát sinh, nay đang bắt đầu phát sinh. Nếu đã phát sinh, bây giờ đang bắt đầu thành tựu.

- Trạch pháp

Yếu tố giác ngộ thứ hai là trạch pháp. Trạch pháp là sự quyết trạch về các pháp, nghĩa là sự nghiên cứu tìm hiểu về Phật pháp. Như khi đọc kinh Tứ niệm xứ, ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa huyền diệu của từng câu từng chữ trong bài kinh, bằng cách thọ trì đọc tụng hằng đêm để cố gắng thể nhập mọi nghĩa lý. Tất cả như vậy đều được xem là trạch pháp.

Khi yếu tố quyết trạch chưa phát sinh, nay đang phát sinh, ta ý thức rõ ràng về điều đó. Khách quan ghi nhận trong tâm đang có sự quyết trạch về các pháp. Ngay khi không có sự quyết trạch về các pháp, ta cũng nhận biết tỉnh giác về điều đó.

Với ánh sáng chánh niệm, ta ý thức tâm mình còn thiếu sót yếu tố trạch pháp, ta suy xét để phát triển sự thiếu sót đó, đưa đến sự phát sinh yếu tố trạch pháp. Và khi trạch pháp đã phát sinh, sẽ đi đến thành tựu. Do bởi trạch pháp thành tựu, ta thấu hiểu được ý nghĩa của lời kinh tâm yếu và phương thức hành trì, để áp dụng vào đời sống tu trì.

- Tinh tấn

Yếu tố giác ngộ thứ ba là sự tinh tấn. Như đã đề cập ở phần đầu, yếu tố tinh tấn rất quan trọng trong quá trình tu tập tứ niệm xứ. Thực tập quán niệm mà thiếu sự tinh chuyên thì khó thể thành đạt được ý nguyện. Hãy nỗ lực tu tập. Hãy kiên nhẫn hành trì. Thực tập sống tỉnh thức trong từng sát na. Sống trong hành động hiện tại.

Khi thực tập bốn pháp quán niệm nghiêm túc và cần mẫn, ta ý thức được tâm mình đang có sự tinh tấn hành trì. Khi có yếu tố tinh tấn, ta ý thức mình có tinh tấn. Khi không có tinh tấn, ta ý thức mình không có tinh tấn. Ta ý thức về sự tinh tấn ngay khi nó bắt đầu phát sinh. Khi đã phát sinh, ta ý thức về sự thành tựu của nó. Ta an trú trong sự quán niệm "có sự tinh tấn đây", như vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của yếu tố tinh tấn trong tâm thức.

- Hoan hỷ

Yếu tố giác ngộ thứ tư là sự hoan hỷ. Do bởi chánh niệm phát khởi và thành tựu, tâm trí ta sáng suốt ghi nhận sự việc, cố công nghiên cứu tìm học Phật pháp. Những yếu chỉ lời kinh được tỏ bày trong ánh sáng trí tuệ, bản thân nỗ lực tinh chuyên hành trì, thực tập sống trong từng sát na. Ta tỉnh biết và ghi nhận sáng suốt về mọi sự việc đang diễn biến trong giờ phút hiện tại. Ta ý thức sống trong từng mỗi hơi thở, trong từng nhịp đập con tim, trong mọi tư thế và cử động của thân thể, trong mọi diễn biến vận hành của tâm tư. Ta thực tập sống tỉnh thức trong mọi phút giây.

Ánh đuốc chánh niệm sáng soi đưa đến sự chứng nghiệm về bản chất vô ngã của mọi sự thể và lý nghĩa vô thường của cuộc đời người. Tâm thức sáng tỏ trong hân hoan vui mừng, đưa đến sự phát sinh của yếu tố hoan hỷ.

Khi yếu tố hoan hỷ bắt đầu phát sinh, ta ý thức về sự phát sinh của nó. Và khi đã phát sinh, ta ý thức về sự thành tựu của nó. Ta an trú trong sự quán niệm "có sự hoan hỷ đây", như vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của yếu tố hoan hỷ trong tâm thức.

- Khinh an

Yếu tố giác ngộ thứ năm là sự khinh an, tức cảm giác thảnh thơi nhẹ nhàng trong tâm thức. Trước hết là yếu tố chánh niệm đã thành tựu, đưa đến sự tăng trưởng yếu tố trạch pháp và sự tinh tấn phát sinh và thành tựu. Sau đó, sự hoan hỷ bắt đầu phát khởi và đi đến thành tựu, thân tâm cảm nhận những thư thái nhẹ nhàng và bình an. Mọi sự vận hành của thân tâm trong vững chải, tâm trí thảnh thơi và thư thái, đưa đến yếu tố khinh an phát sinh.

Khi sự khinh an bắt đầu phát sinh, hãy tỉnh giác và nhận biết về điều đó. Ta ý thức tâm mình đang có sự khinh an. Khi yếu tố khinh an thành tựu, ta ý thức rõ ràng về sự thành tựu của nó. Khi yếu tố khinh an đã thành tựu, thân tâm cảm nhận sự nhẹ nhàng, ung dung và vững chải. Hơi thở ý thức trong từng mỗi phút giây tĩnh lặng.

- Ðịnh

Yếu tố giác ngộ thứ sáu là định. Từ sự thành tựu của các yếu tố giác ngộ căn bản đã đưa đến sự thành tựu của yếu tố khinh an. Khi sự khinh an thành tựu, sẽ đưa đến sự phát sinh của yếu tố định. Ngay giờ đây, mọi hơi thở vào ra trong ý thức. Tâm thể vắng lặng tịch tĩnh. Vọng tưởng đọng lắng. Tâm thức bình an như mặt hồ thu sớm. Chánh niệm sáng tỏ trong từng mỗi hơi thở, trong từng mỗi sát na của cuộc sống. Ðây là giai đoạn yếu tố định đang bắt đầu thành tựu.

Trong phần niệm tâm, yếu tố định đã được đề cập chi tiết. Ở đây, chỉ xin nhấn mạnh, yếu tố định được xem như hoa trái của sự giác tỉnh. Khi tâm thức có định, ta ý thức rõ ràng tâm thức đang có định. Khi tâm thức không có định, ta cũng ý thức rõ ràng tâm thức không có định.

Ta ý thức về sự định tâm từ khi nó chưa phát sinh, nay đang phát sinh. Khi phát sinh, ta ý thức về sự phát sinh của nó. Và khi thành tựu, ta ý thức rõ ràng về sự thành tựu của nó.

- Xả

Yếu tố giác ngộ cuối cùng là hành xả, tức sự buông bỏ. Khi định lực phát triển, lúc đó tâm trí đi vào sự tịch tĩnh vắng lặng không một móng niệm. Khi ấy, tâm thức hoàn toàn thật sự buông xả tất cả. Thân và tâm không còn bị trói buộc vào bất cứ gì trong cuộc đời. Ta sống trong cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm não loạn sầu tư. Những sự việc biến động chung quanh cũng không làm chao động não tâm.

Người hành giả sống ung dung và thản nhiên như mây như gió, thanh thản như ngọn cỏ như lá hoa, điềm nhiên như hạt nắng chiều tà, tự tại như giọt sương rơi sớm. Không bị hoàn cảnh trói buộc. Không bị vọng tưởng gây não phiền. Không náo động trong hiện tại. Không bấn loạn phân tâm với sự đời.

Do bởi sống an nhiên và tỉnh thức, trực nghiệm sự nhiệm mầu của tạo hóa, ý nghĩa và sự hiện hữu của đời người. Sự sống chết cũng không luống hề bận tâm. Sống trọn vẹn với chính ta, hoan hỷ an vui trong hiện tại. Sống và thật sự sống trong từng sát na nhiệm mầu của cuộc sống.

Sống vẫn sống, sống để sống, sống thật sự với cuộc sống nhưng không chấp chặt vào đó. Một cái phất tay rũ sạch tất cả mọi não phiền. Thong dong tự tại. An nhiên tịch tĩnh.


Khi biết tâm thức có sự buông xả hay không có buông xả, ta đều nhận biết đúng như vậy. Ta ý thức ngay khi sự buông xả phát sinh, ý thức về sự tăng trưởng của nó, sự thành tựu của nó. Yếu tố hành xả đưa đến sự thảnh thơi và giải thoát hoàn toàn cho tâm thức. Ðiều đó có nghĩa là tiến lên một bước nữa trên sự buông xả để xả cái xả, buông bỏ cái buông bỏ vậy.