Lãnh vực thứ ba là
pháp quán tâm, được áp dụng phối hợp với pháp quán hơi thở để giúp ta giữ vững
định lực. Phần niệm tâm rất quan trọng bởi sự thụ động đối trị của tâm thức gắn
liền với những tưởng vọng của tâm thức.
Trong pháp quán
tâm, bất cứ ý tưởng nào khởi dậy trong tâm thức, ta cần tỉnh táo nhận biết về
sự phát khởi của ý tưởng đó. Sự ghi nhận tương đối dễ dàng nếu hơi thở được duy
trì có ý thức. Ta giữ sự tỉnh biết bằng cách theo dõi hơi thở. Hơi thở vào, ta
biết hơi thở vào. Hơi thở ra, ta biết hơi thở ra. Sự tập trung tâm ý vào hơi
thở là phương tiện mầu nhiệm để giúp ta nhận biết về sự phát khởi của các ý
niệm trong tâm thức.
Khi có một ý tưởng
phát sinh, ta ghi nhận có một ý tưởng phát sinh, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi
thở. Không bực bội với nó. Không hoan hỷ với nó. Tâm trí không theo đuổi hay
phân tích bất cứ ý niệm nào. Ta chỉ khách quan nhận biết vậy, thế thôi. Ta biết
nó vừa mới sinh khởi. Ta biết nó đang tăng trưởng. Ta biết nó đang giảm suy. Ta
biết nó đã hủy diệt. Con mắt tâm tập trung vào hơi thở và ghi nhận những diễn
biến sinh diệt của các ý niệm nơi tâm thức. Cố gắng nuôi giữ sự tỉnh thức trong
mọi phút giây, bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào.
Giai đoạn đầu khi
mới học thiền, dĩ nhiên tâm trí rất khó có thể tập trung an định được. Có nhiều
khi ý nghĩ sinh khởi liên tục, dẫn kéo ta đi xa vào những tưởng vọng mông lung.
Nhưng nếu cố gắng hành thiền thường xuyên, sự giác tỉnh sẽ được nâng cao. Khi
một ý tưởng bắt đầu sinh khởi, ta liền nhận biết ngay về sự sinh khởi của ý
tưởng đó. Ta chú tâm nhận biết sự tan biến của nó. Sự tập trung của tâm ý cũng
theo đó phát triển và định lực cũng nhờ đó mà được nâng cao.
Khi có một ý tưởng
vừa phát khởi, ta nhận định về điều đó và quán niệm rằng "có một ý nghĩ
đang phát sinh". Với sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta ý thức được sự có
mặt của tâm thức. Ngay khi ta vừa nhận biết có một ý nghĩ đang phát sinh thì
ngay khi ấy ý nghĩ đó cũng đã bị suy yếu và tan biến đi. Ta ý thức về tất cả
những biến động sinh diệt vô thường của các ý niệm và làm cho tâm ý ta trở
thành hoan lạc tươi mát.
Ðây là yếu chỉ
hành trì của phương pháp hàng phục tâm mà Ðức Phật đã thuyết giảng trong kinh
Kim cang - "một niệm dấy lên là chúng sanh, đưa những niệm đó vào chỗ vô
sanh, đó là hàng phục tâm" (thiền sư Thích Thanh Từ dịch và chú giải).
Các lãnh vực của
tâm ý:
- Tâm ý tham dục
Những khi trong
tâm khởi dậy bất cứ một ý nghĩ tham dục nào, ta cần nhận biết về sự phát khởi
của những dục niệm đó. Nếu như tinh chuyên nắm giữ hơi thở trong mọi lúc, thì
khi bất cứ ý nghĩ tham dục nào phát khởi, ta liền nhận biết được ngay. Ta ghi
nhận sự sinh khởi và hủy diệt của những dục tưởng để trực nghiệm bản chất vô
thường của nó. Khi trong tâm không còn ý nghĩ tham dục nữa, ta cũng liền giác
tỉnh nhận biết đúng như vậy.
Ta an trú trong sự
quán niệm "có một ý nghĩ tham dục đang phát sinh trong tâm thức". Với
sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của các
ý niệm tham dục.
- Tâm ý sân hận
Cũng như pháp quán
chiếu về tâm ý tham dục, mỗi khi trong tâm có những ý nghĩ sân hận, ta ý thức
về sự phát khởi của những ý nghĩ sân hận đó, khách quan ghi nhận "có một ý
niệm sân hận đang phát khởi". Với sự ghi nhận như thế đủ để giúp ta ý thức
được sự có mặt của sân hận trong tâm thức.
Khi có sự chú tâm
ghi nhận về ý nghĩ giận dữ thì ngay đó sân niệm suy yếu và tan biến trong ánh
sáng chánh niệm. Hãy cố gắng duy trì hơi thở trong ý thức. Biết rõ ta đang thở
vào. Biết rõ ta đang thở ra. Biết ta đang có một ý nghĩ giận dữ. Hãy đối trị
thụ động với tâm hoàn toàn giác tỉnh. Hãy xem những sân niệm như gió thoảng như
mây bay. Cố gắng đừng để bị não phiền vì những sân niệm sinh diệt. Như trong
chứng đạo ca - "ba món độc tham sân si như bọt nước hiện ra rồi mất
đi" (tam độc thủy bào hư xuất một). Hãy nhận biết tỉnh giác từ khi những
sân niệm phát sinh cho đến khi hoàn toàn bị hủy diệt để trực nghiệm bản chất vô
thường của sân niệm.
Ngay khi ý niệm
sân hận đã tan biến, tâm thức không còn sự sân hận nữa, ta cũng liền nhận biết
điều đó. Ta biết ta đang thở và ý thức rằng trong tâm ta không còn sự sân hận.
Ta duy trì hơi thở trong ý thức. Thở vào, ta biết ta đang thở vào và nhận biết
tâm thức ta không còn sự giận dữ. Thở ra, ta biết ta đang thở ra và nhận biết
tâm thức ta không còn sự sân hận.
- Tâm ý si mê
Khi tâm thức có
những tưởng vọng u mê, ta liền nhận biết được sự phát khởi đó. Khi nhận diện
được trong tâm đang có những ý tưởng si mê, thì sự si mê đó đã đang được chuyển
hóa, để hướng về cái nhìn trong sáng hơn. Như vậy thì sự nhận biết đó đã là một
sự giác tỉnh rồi. Và, khi trong tâm không còn có sự u mê, ta cũng nhận biết rõ
ràng và sáng suốt rằng mình không có những ý tưởng u mê trong lúc nầy.
Ðiều quan trọng là
sự nhận biết về ý thức đó chỉ là một sự giác tỉnh trong nhất thời. Tế nhị không
để tâm thức bị trói buộc trong nội dung si mê đó. Nếu không khéo léo lại bị mờ
mịt trong chán chường tự trách, chỉ bởi sự lầm lẫn với những u mê nhất thời.
- Tâm ý thu nhiếp
Khi tâm ý có sự
thu nhiếp, hơi thở trở nên êm dịu, thân tâm cảm thấy nhẹ nhàng và tươi mát. Ta
thở vào và thở ra trong sự giác tỉnh, ghi nhận từng hơi thở vào ra nhẹ nhàng
trong tỉnh biết. Trong nhất thời đó, vọng tưởng không còn quá loạn náo, tâm trí
đã có sự tập trung về hơi thở tương đối vững chải. Ta ý thức và ghi nhận về cảm
giác dịu lắng nơi thân tâm. Ta biết ta đang thở vào, ta biết ta đang thở ra
trong ý thức sáng suốt về cảm giác đó.
Giá trị cuộc sống
đây, nghệ thuật thiền học nầy, thật bình dị trên hơi thở tĩnh lặng và ý thức.
Hãy an trú trong sự quán niệm "tâm thức đang có sự thu nhiếp". Khi
tâm thức không còn có sự thu nhiếp, ta cũng nhận biết rõ ràng về điều đó. Với
sự ghi nhận như vậy đủ để giúp ta ý thức được sự có mặt của tâm thức.
- Tâm ý tán loạn
Trong bước đầu
thực tập quán niệm, rất khó giữ tâm ý tập trung trên hơi thở cho được liên tục,
rất khó có thể duy trì ý thức trên từng hơi thở trong mỗi phút giây. Khi nhìn
vào nội thức, tâm trí nghĩ suy đủ mọi vấn đề. Những nghĩ suy tuôn bờ ào ạt như
sóng vỗ. Ðấy là lúc tâm trí tán loạn, tư duy mông lung, chập chờn biết bao ý
tưởng. Từ những ý nghĩ nhỏ nhặt nhất, cho đến những tiếc nuối về quá khứ, những
lo lắng về tương lai, những mộng ước về ngày mai.
Ðấy là giai đoạn
tâm trí náo loạn khó thể dừng nghỉ được. Hãy cố gắng ý thức phút giây tâm trí
đang cuồng loạn. Hãy cố gắng duy trì hơi thở trong ý thức. Thở vào, ta biết ta
đang thở vào, ta biết tâm trí ta đang tán loạn. Thở ra, ta biết ta đang thở ra,
ta biết tâm trí ta đang cuồng quay. Hãy quán niệm "tâm thức đang có sự tán
loạn". Hơi thở ý thức là phương tiện khả dĩ làm nền tảng để có thể chuyển
hóa được nội tâm. Hãy nhận biết sự phát khởi của nó. Hãy ghi nhận sự suy yếu và
tan biến của nó. Hiệu năng của hơi thở ý thức sẽ giúp cho tâm trí trầm lắng
xuống. Sự tán loạn vọng động sẽ giảm bớt và thân tâm sẽ cảm thấy dễ chịu hơn ít
nhiều.
Tâm ý thu nhiếp và
tâm ý tán loạn là hai lãnh vực tương phản nhất thời của tâm thức. Khi vọng
tưởng tương đối dừng lặng, hơi thở trở nên nhẹ nhàng, thân và tâm tương đối dịu
lắng trong sự định tỉnh sáng suốt, ta nhận biết ta đang có sự thu nhiếp. Ngược
lại, khi tâm trí náo động, vọng tưởng phát khởi, nghĩ suy không theo trình tự,
hơi thở trở nên thô tháo, đầu óc không còn sáng suốt, khó có thể tập trung tinh
thần, là lúc tâm thức đang có sự tán loạn.
Nếu tâm trí có sự
tán loạn không thể dừng nghỉ được, ta có thể áp dụng phương pháp đếm hơi thở để
định tâm (sổ tức). Khi ý thức tâm đã tương đối an định và đã bắt đầu có sự thu
nhiếp, số đếm không còn lộn, thì lúc đó ta nên bỏ đếm để trở về với sự chú tâm
quán sát hơi thở.
Tập trung tâm ý
vào hơi thở, khởi sự bắt đầu đếm hơi thở để định tâm:
- thở vào đếm
"một", thở ra đếm "một"
- thở vào đếm
"hai", thở ra đếm "hai"
- thở vào đếm
"ba", thở ra đếm "ba" ...
Cứ thế, đếm từ
"một" đến "tám", rồi trở lại bắt đầu từ "một".
Nếu đếm giữa chừng bị lộn số hay quên đếm thì bắt đầu trở lại từ
"một". Tiếp tục đếm cho đến khi số đếm không còn lộn, hơi thở trở nên
nhẹ nhàng, tâm thức bắt đầu có sự an định, thì lúc đó nên bỏ đếm để trở về theo
dõi hơi thở.
- Tâm ý trở thành rộng lớn
Với mức độ hành
thiền tinh chuyên, sự tập trung tỉnh thức nâng cao, tâm ý vượt lên trên những
nhận thức hạn hẹp, không còn bị trói buộc trong tri kiến chủ quan, không còn bị
chi phối bởi những biệt phân riêng rẽ, là lúc tâm thức đang trở thành rộng lớn,
với cái nhìn độ lượng, với đôi mắt hòa đồng trên mọi sự việc.
Khi ấy, những ý
nghĩ vọng động cũng đã lặng dừng, ta có cái nhìn sâu vào sự việc trên mối tương
duyên và tương sinh của sự việc. Không phân chia tẻ biệt. Tâm trí hiểu biết và
hành động thương yêu mọi loài với đức độ từ bi và hỷ xả.
Tâm trí có cái
nhìn sáng suốt, độ lượng và cảm thông với muôn loài. Sự giác tỉnh không còn nằm
trong lãnh vực tẻ phân tri kiến, thân tâm trở nên nhẹ nhàng và thư thái. Ðây là
lúc tâm thức đang bắt đầu trở thành rộng lớn. Ta nhận biết tỉnh thức rằng tâm
trí mình đang trở thành rộng lớn. Với sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta ý thức
được sự có mặt của tâm thức, để quán chiếu về sự vô thường của tâm thức.
- Tâm ý trở thành hạn hẹp
Thở vào, ta biết
ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta biết tâm thức ta đang trở
thành hạn hẹp. Hạn hẹp từ cái nhìn, cái thấy, cái hiểu, cái suy xét trong ta.
Ta biết ta đang có những ý nghĩ tầm thường, những cái nhìn ích kỷ tư riêng, gói
trọn trong bản ngã thấp hèn. Sự bẩn chật bần cùng trong tâm thức đang sống
trong ta. Ta nhìn sự vật trong nhỏ bé tự thân, trong tư hữu lợi danh, trong bần
tiện xét suy việc đời.
Tâm ý trở thành
rộng lớn và tâm ý trở thành hạn hẹp là hai lãnh vực tương phản nhất thời của
tâm thức. Khi tâm ý có cái nhìn tương đối tỉnh thức khách quan và quảng đại
trong cái hiểu cái biết có chiều sâu, là lúc tâm thức đang bắt đầu trở thành
rộng lớn. Ngược lại, khi tâm ý có cái nhìn hạn hẹp tẻ phân trong phiếm diện và
tự kỷ, là lúc tâm ý đang trở thành hạn hẹp.
- Tâm ý đạt đến trạng thái
cao nhất
Trong lúc ngồi
thiền, khi mà vọng tưởng gần như vắng lặng, thân tâm dịu lắng với cảm giác
khinh an, hơi thở như có như không, ý thức an bình, tâm trí sáng suốt trong tĩnh
lặng. Ðấy là lúc tâm thức có sự thu nhiếp, là giai đoạn tâm thức đang đi vào
trạng thái cao nhất của tâm linh, thực sự bắt đầu để đi vào các cõi thiền.
Hãy duy trì hơi
thở trong sự tỉnh thức. Thở vào, ý thức là đang thở vào. Thở ra, ý thức là đang
thở ra. Ta tỉnh biết rằng ta đang thở trong phút giây nầy với một tâm trí định
tỉnh, với sự nhận hiểu sáng suốt. Ta ý thức và ghi nhận rằng tâm thức ta đang ở
trong trạng thái cao nhất của tâm linh, một trạng thái khinh an với những làn
gió nhẹ nhàng và thanh thản đang trôi chảy trong ta.
Khi tâm thức không
còn ở trong trạng thái cao nhất của tâm linh, ta nhận biết được điều đó. Ta an
trú trong sự quán niệm như vậy đủ để ý thức được sự có mặt của tâm thức, để
quán chiếu về sự vô thường của tâm thức.
- Tâm ý có định
Hành trì tứ niệm
xứ tinh chuyên và đúng phương pháp, tâm thức sẽ dần lắng động và định tỉnh, lực
tập trung vào hơi thở cũng sẽ tăng trưởng. Ta ý thức về hơi thở trong từng mỗi
phút giây, ghi nhận mọi sự việc khách quan và sáng suốt. Ta sống tỉnh thức
trong từng mỗi sát na của cuộc sống. Sự bình tâm và an lạc đến với ta như những
hoa trái đã gặt hái được từ vùng trời tâm linh.
Trong lúc ngồi
thiền, khi mà tâm thức đã trở nên vắng lặng, đang bắt đầu đi vào sự thu nhiếp,
là khi tâm thức đã đạt đến trạng thái cao nhất của tâm linh, là khi những vọng
tưởng không còn phát khởi loạn cuồng. Khi ấy, tâm thức chỉ hoàn toàn ý thức về
hơi thở và chỉ hơi thở. Ðây là lúc tâm ý đang bắt đầu đi vào định.
Trong giai đoạn
bắt đầu định tâm, sự tỉnh biết vẫn sáng tỏ chiếu soi. Những gì xảy ra chung
quanh, ta đều nhận biết rõ nhưng không bị lôi cuốn vào đó. Những náo nhiệt
chung quanh không thể gây tạo cho tâm trí loạn động. Tất cả nếu có, chỉ là ngọn
gió khinh an mát lạ trong tâm thức, tưởng như hoa xuân tươi nở muôn sắc màu -
"ao hồ ngàn nước ngàn trăng hiện, vạn dặm không mây vạn dặm xanh"
(thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt, vạn lý vô vân vạn lý thiên). Ðây là giai
đoạn tâm thức đang thực sự bắt đầu đi vào các cõi định.
Khi tâm ý có định,
ta có cảm thức thân tâm nhẹ nhàng như mây bay, hơi thở lắng dịu hoàn toàn như
có như không, vọng tưởng chẳng còn chút gì vọng động. Sự an lạc đến như một cảm
nhận từ kinh nghiệm tâm linh cá biệt. Một điều cần nhấn mạnh, trong thiền Phật
giáo, ở giai đoạn bắt đầu đi vào định, tâm trí vẫn tỉnh biết hoàn toàn trong sự
sáng suốt. Nếu như tâm trí mịt mờ ảo ảnh trong giai đoạn đó, thì cái gọi là
định, chỉ là một hiện tượng biến trạng của hôn trầm, chưa thể được gọi là định.
Trong giao tiếp
hằng ngày, tâm thức được xem là có định là khi 8 ngọn gió lợi danh vinh nhục
không làm chao động tâm thức. Ngược bằng, một trong những ngọn gió tài lợi, suy
hao, hủy nhục, công kênh, ngợi khen, chê bai, đau khổ, vui thú gây tạo cho tâm
trí ít nhiều xao xuyến, thì như vậy chưa thể nói là tâm trí đã có sự định tỉnh.
Những khi bắt đầu
đi vào định, tâm thức vẫn sáng suốt giác tỉnh trong từng mỗi sát na, ta nhận
biết rằng "tâm thức ta đang có định". Ðó gọi là chánh định -
"như như chẳng động, lặng tĩnh thường sáng" (như như bất động, liễu
liễu thường minh). Khi tâm thức không có định, vọng tưởng phát khởi không
ngừng, ta cũng nhận biết rõ ràng như vậy. Ta ghi nhận rằng "tâm thức không
có định". Với sự ghi nhận như vậy đủ để giúp ta an trú trong sự tỉnh biết
và ý thức về sự có mặt của tâm thức.
- Tâm ý giải thoát
Trong khi ngồi
thiền, khi tâm trí đã thu nhiếp và đi vào trạng thái cao nhất của tâm linh, khi
mà tâm thức đã thực sự bắt đầu đi vào các cõi định, khi ấy vọng tưởng không còn
chút gì loạn động, tâm thể hoàn toàn vắng lặng an bình. Ðó là lúc tâm ý đang
nhất thời có sự giải thoát khỏi những não phiền tư duy. Trong giai đoạn nhất
thời nầy, tâm ý an trú trong sự vắng lặng hoàn toàn. Tâm không còn bị trói buộc
vào bất cứ gì nơi tư duy. Ðây là giai đoạn tâm thức đang có sự giải thoát vô
ngại, thực sự an trú hoàn toàn trong tỉnh thức sáng suốt và tự do an bình.
Trong giai đoạn
khi mà những vọng động náo nhiệt bên ngoài không còn gây tạo tâm thức bấn loạn,
những ngọn gió lợi danh vinh nhục không còn làm bận trí sầu ưu. Khi mà sự tập
trung của tâm trí đã đạt đến cao độ. Tâm thức đã thực sự vắng lặng. Ðịnh lực
phát triển vững mạnh. Ðấy là lúc thực sự tâm thức đang đi vào định, giai đoạn
bắt đầu để bước vào ngưỡng cửa tâm linh của sự giải thoát. Như thiền sư Nyogen
Senzaki đã nói "hãy cứ đơn thân ngồi nhìn im lặng, dẫu trời cao quay vòng,
dẫu đất bằng loạn động, người chả thèm chớp mắt bận tâm". Ðấy là giai đoạn
định tâm bắt đầu khi mà tâm thức đã thực sự an trú hoàn toàn trong lặng tĩnh.
Và, khi trong tâm
thức đang bắt đầu có sự giải thoát, đã thực sự vượt lên trên tất cả những buộc
ràng của tư duy, ta quán sát nhận biết đúng như vậy. Ta an trú trong quán niệm
"tâm thức có sự giải thoát". Và khi tâm trí không có sự giải thoát,
ta cũng liền nhận biết như vậy. Ta thở vào thở ra trong ý thức, biết rõ từng
hơi thở một. Ta chú tâm ghi nhận rằng "tâm trí không có sự giải
thoát". Và với sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta ý thức được sự có mặt
của tâm thức.
Tóm lại, những khi
tâm thức có tham dục, sân hận, si mê, có thu nhiếp hay tán loạn, có định hay
không định, có giải thoát hay không giải thoát, ta cũng đều ý thức được sự sinh
khởi và hủy diệt của nó. Ta chú tâm quán sát quá trình sinh diệt của tất cả mọi
tưởng vọng nơi tâm thức, nhận biết sự vô thường của nó, sự phát sinh, tăng
trưởng, suy yếu và hoại diệt của nó.
Ta an trú trong sự
quán niệm về quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi tâm thức. Khi có một
ý tưởng tham dục hay sân hận phát khởi, tâm trí liền ghi nhận ý tưởng tham dục
hay sân hận đó. Khi ý tưởng tham dục hay sân hận bị suy yếu và tan biến đi, ta
cũng tỉnh biết ghi nhận về điều ấy. Không để ý niệm trói buộc dẫn đưa ta vào
những suy tưởng đắm say, những phiền lụy khổ não. Hãy buông xả mọi vướng mắc
trong tâm thức. Hãy ý thức về hơi thở và cố gắng thu giữ thân tâm dịu lắng
trong an bình.
Ta an trú trong sự
quán niệm "có tâm thức đây" và chỉ có tâm thức. Không có ta trong tâm
thức. Chỉ có tâm thức và là tâm thức nơi tâm thức. Với sự quán niệm như vậy đủ
để giúp ta ý thức được sự có mặt của tâm thức, để quán chiếu về sự vô thường
của mọi ý niệm trong tâm thức.
-ooOoo-