Sunday, February 28, 2016

Quán về sáu nội ngoại xứ

   Bước kế tiếp là quán niệm về sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu đối tượng của giác quan là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và tư tưởng.

Những ràng buộc của sáu nội ngoại xứ:

- sự ràng buộc của mắt và hình sắc
- của tai và âm thanh
- của mũi và mùi hương
- của lưỡi và vị nếm
- của thân và xúc chạm
- của ý và tư tưởng

Khi mắt nhìn thấy sự vật là do bởi có mắt và có sự vật, có sự tiếp xúc của mắt với sự vật nên ta có sự thấy biết của mắt (tưởng) và nhận thức phân biệt về sự vật (thức). Ðấy là sự ràng buộc tạo nên do mắt tiếp xúc với hình sắc. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Ý thức khách quan và tỉnh biết từ lúc sự ràng buộc chưa phát sinh, nay đang phát sinh, do bởi sự tiếp xúc của mắt với hình sắc. Khi ý thức được sự ràng buộc đang phát sinh, hãy tập trung tâm trí vào hơi thở, quán chiếu rằng mắt và hình sắc không có tự tánh riêng. Và khi sự ràng buộc bị suy yếu và tan biến đi, ta cũng ý thức về điều đó. Về những lãnh vực khác của sáu nội ngoại xứ cũng tương tự như vậy.

Khi tai nghe thấy một âm thanh là do bởi có tai và có âm thanh, có sự tiếp xúc của tai với âm thanh, gây tạo cho tâm thức sự nghe biết (tưởng) và nhận thức phân biệt về âm thanh (thức).

Khi mũi ngửi thấy một mùi hương là do bởi có mũi và có mùi hương, có sự tiếp xúc của mũi với mùi hương, gây tạo cho tâm thức sự ngửi biết (tưởng) và nhận thức phân biệt về mùi hương (thức).

Khi lưỡi nếm biết một vị nếm là do bởi có lưỡi và có vị nếm, có sự tiếp xúc của lưỡi với vị nếm, gây tạo cho tâm thức sự nếm biết (tưởng) và nhận thức phân biệt về vị nếm (thức).

Khi thân chạm biết vật thể là do bởi có thân và có vật thể, có sự tiếp xúc của thân với vật thể, gây tạo cho tâm thức sự chạm biết (tưởng) và nhận thức phân biệt về vật thể (thức).

Khi tâm ý khởi biết có một niệm tưởng là do bởi có tâm ý và có tư tưởng, có sự tiếp xúc của ý với tư tưởng, gây tạo cho tâm thức sự khởi biết về tư tưởng (tưởng) và nhận thức phân biệt về các ý niệm (thức).

Thí dụ, về sự ràng buộc của mắt và hình sắc, khi nhìn thấy một cô gái trẻ đẹp với thân hình duyên dáng và nụ cười hồn nhiên (ảnh hưởng từ bên ngoài) gây tạo cho ta một sự mê thích của dục tính (ảnh hưởng bên trong). Về sự ràng buộc của tai và âm thanh, khi nghe một âm thanh chửi bới (ảnh hưởng từ bên ngoài) gây tạo cho ta sự nghe hiểu và cảm giác khó chịu (ảnh hưởng bên trong).

Theo tinh thần kinh Bốn lãnh vực quán niệm, an trụ tâm mà Ðức Phật đã đề cập trong kinh Bốn Niệm xứ có nghĩa là tâm khởi niệm không chấp chặt vào sáu trần, không vướng kẹt nơi cái thấy ở màu sắc, nơi cái nghe ở âm thanh, nơi cái ngửi ở mùi hương, nơi cái nếm ở mùi vị, nơi cái cảm biết từ sự xúc chạm của xác thân, nơi ý thức phân biệt của suy tưởng. An trụ như thế gọi là trụ tâm vào chỗ không chỗ trụ, nghĩa là không chấp chặt vào trần cảnh mà sanh tâm thanh tịnh vậy. Con đường thánh đạo để hành giả nương dựa vào đó tu tập sống tỉnh thức, an trụ tâm trong ý thức chánh niệm, vượt bỏ sự bám víu vào ngũ uẩn - đó là con đường của tứ niệm xứ, tức bốn lãnh vực quán niệm.


Khi quán niệm về sự ràng buộc của các giác quan và các đối tượng của giác quan, hãy khách quan ghi nhận sự gây tạo ảnh hưởng của nó đến tâm thức và cảm thọ. Ta ý thức sự ràng buộc ngay khi nó bắt đầu phát sinh, tăng trưởng, suy yếu, cho đến khi bị hủy diệt hoàn toàn. Ta an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt của nó để thấy rõ bản chất vô thường của sự ràng buộc nơi các giác quan. Ta quán niệm rằng "có sáu giác quan đây" "có sáu đối tượng của giác quan đây" và tất cả chỉ là sáu giác quan, sáu đối tượng của giác quan. Với sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta ý thức được sự có mặt của các pháp đối tượng của tâm thức.