Kẻ sân hận xấu xí,
Đau khổ khi nằm
ngủ,
Được các điều lợi
ích
Lại cho là bất
lợi.
Sân hận, nó đả
thương,
Với thân với lời
nói,
Làm mồi cho sân
hận,
Tài sản bị tiêu
vong.
Bị sân hận điên
loạn,
Danh dự bị hủy
diệt,
Bà con cùng bạn
bè,
Lánh xa người sân
hận.
Sân hận sanh bất
lợi,
Sân hận dao động
tâm,
Sợ hãi sanh từ
trong,
người ấy không
biết rõ.
Sân hận không biết
lợi,
Sân hận không thấy
pháp…(A. iv, 94)
Và, ‘Như một khúc
gỗ từ giàn hỏa thiêu, bị cháy cả hai đầu, khúc giữa lại bị thối, chẳng dùng làm
gỗ (xây dựng) ở làng, cũng chẳng dùng làm gỗ ở rừng được, Ta nói một người làm
mồi cho sân hận cũng thế’ (A.ii, 95; Iti.90) ? Nếu bây giờ mi sân hận, mi sẽ là
một người không thực hành lời dạy của Đức Thế Tôn; do lấy sân hận đáp lại người
sân hận mi còn tệ hơn người sân ấy và không thắng được cuộc chiến khó thắng;
chính mi sẽ làm cho mi những điều mà vốn chỉ có lợi cho kẻ thù, làm cho kẻ thù
thỏa mãn, và mi cũng chẳng khác gì khúc gỗ ở giàn hỏa thiêu.
Nếu, sự tức giận
của hành giả lắng xuống khi cố gắng và nỗ lực theo cách này, thì tốt. Bằng
không, hành giả nên loại trừ sự khó chịu bằng cách nhớ lại một điều gì đó nơi
người ấy đã được chế ngự, trong sạch, cổ
vũ cho niềm tin khi nhớ đến.
Vì một người có
thể chế ngự hành vi nơi thân của mình với sự chế ngự trong quá trình thực hiện
một nhiệm vụ rộng lớn nào đó được mọi người biết đến, mặc dù những hành vi về
lời nói và ý nghĩ không được chế ngự. Thời những khẩu hành và ý hành ấy cần
phải được bỏ qua và chỉ nhớ đến sự chế ngự nơi thân hành của người ấy mà thôi.
Một người khác có
thể chế ngự được hành vi về lời nói của mình, và sự chế ngự của anh ta mọi
người đều biết — anh ta có thể lanh lợi tự nhiên¬ trong việc tiếp đón (khách)
một cách lịch thiệp, dễ nói chuyện, tương đắc, cởi mở, biết tôn trọng trong
cách nói và có thể diễn giảng Pháp (Dhamma) với chất giọng ngọt ngào, giải
thích Pháp với văn cú và chi tiết đầy đủ — mặc dù hành vi về thân và ý của anh
ta không được chế ngự. Thời hai hành vi sau nên bỏ qua và chỉ nhớ sự chế ngự
nơi khẩu hành của người ấy mà thôi.
Trong khi một
người khác có thể chế ngự được hành vi ý thức của mình, và sự chế ngự của anh
ta được thể hiện trong lúc lễ bái tại các điện thờ, v.v… rất hiển nhiên với mọi
người. Vì khi một người không có sự chế ngự trong tâm đảnh lễ tại các điện thờ
(Phật, xá-lợi) hay tại cây Bồ-đề hoặc đảnh lễ các bậc Trưởng lão, họ không làm
điều ấy một cách cẩn trọng, và khi ngồi trong giảng đường nghe Pháp tâm họ cũng
phóng đi lung tung hay ngủ gà ngủ gật. Ngược lại người tâm được chế ngự đảnh lễ
một cách thận trọng và có suy nghĩ, nghe Pháp một cách chăm chú, ghi nhớ pháp,
và biểu lộ niềm tin trong tâm của mình qua thân và khẩu. Vì thế, người khác chỉ
có thể chế ngự được hành vi ý thức của mình, dù thân và khẩu hành không được
chế ngự. Thời hãy nhớ đến sự chế ngự nơi ý hành ấy và bỏ qua thân và khẩu hành
của họ.
Nhưng có thể một
người khác thậm chí không có một hành vi nào trong ba hành vi này được chế ngự
nơi họ. Thời lòng bi mẫn đối với người ấy phải được khơi dậy như vầy: Mặc dù
hiện tại hắn ta đang lang thang trong thế giới loài người, tuy nhiên sau một số
ngày nào đó hắn ta sẽ thấy mình nơi (một trong) tám đại địa ngục hay nơi mười
sáu địa ngục nổi tiếng. Vì sự khó chịu cũng sẽ lắng dịu nhờ lòng bi mẫn
vậy.
Vẫn có một người
khác cả ba hành vi đều được chế ngự. Trong trường hợp như vậy hành giả có thể
nhớ đến bất cứ hành vi nào trong ba hành vi nơi người ấy mà hành giả thích
nhất; vì sự tu tập tâm từ đến một người như vậy rất dễ.
Và để làm rõ ý
nghĩa này bài kinh sau đây từ quyển V của Tăng Chi Kinh (Anguttara Nikaya) sẽ
được trích dẫn đầy đủ: ‘Này các Tỳ-kheo, có năm cách xua tan hiềm hận, hiềm hận
khởi lên ở chỗ nào nơi một vị Tỳ-kheo có thể được xua tan một cách hoàn toàn’
Nhưng nếu sự khó
chịu vẫn khởi lên bất chấp những nỗ lực của hành giả, thời hành giả nên tự cảnh
tỉnh mình như sau:
‘Nếu như có kẻ thù
làm hại
Mi biết rồi lãnh
vực của y
Sao lại còn tự hại
thân mình
Tâm mi? — Đâu phải
lãnh vực của nó.
Với nước mắt mi từ
bỏ gia đình
Họ cũng nhân từ và
giúp ích.
Thế sao không từ
bỏ kẻ thù,
Sân hận đem hại
đến cho mi?
Sân hận này gặm
mòn tận gốc
Mọi giới đức mi
từng gìn giữ–
Hỏi còn ai ngu
ngốc như mi?
Người kia làm
những điều bất thiện.
Vậy là mi bực
– đúng không?
Có nghĩa là mi
muốn bắt chước
Những lỗi lầm mà
hắn phạm chăng?
Nếu người khác,
gây nên phiền muộn,
Với hành vi khả ố
khích mi,
Sao để cho nổi lên
sân hận,
Và làm như hắn
muốn mi làm?
Nếu như mi nổi
giận, thì sao
Mi làm hắn khổ,
hay không khổ!
Dù đã đau do sân
mang lại
Chắc chắn mi đáng
bị phạt bây giờ.
Nếu kẻ thù do sân
mù quáng
Khởi sự trên đường
khổ bước đi
Liệu mi có nổi sân
như hắn
Nối gót theo đường
khổ hay không?
Nếu kẻ thù làm mi
tổn hại
Lầm lỗi do sân hận
của mi
Thì hãy mau dập
tắt nó đi,
Vì sân ấy thật là
phi lý.
Các pháp vốn
sát-na tồn tại
Ngũ uẩn kia, qua
đó họ làm
Việc khả ố, giờ
cũng đã diệt,
Thế thì mi giận
với cái chi?
Nó hại ai, và ai
hại lại nó
Chính sự hiện hữu
của mi
Mới là nhân gây
đau khổ
Vậy cớ sao mi còn
nổi sân?’
Nhưng nếu khi đã
tự cảnh tỉnh mình như vậy mà sự tức giận cũng không lắng xuống, thì hành giả
nên xét đến sự kiện rằng cả hành giả và người kia đều là những chủ nhân của
nghiệp (kamma).
Ở đây, trước hết
hành giả nên xét lại điều này nơi tự thân: Bây giờ điều quan trọng của việc mi
nổi sân với hắn là gì? Chẳng phải nghiệp (kamma) bắt nguồn từ sân hận này của
mi sẽ dẫn đến sự tự hại mình sao? Vì mi là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự
của nghiệp,
nghiệp là cha mẹ, là quyến thuộc, là nơi nương nhờ của mi; mi sẽ
trở thành kẻ thừa tự của những nghiệp mi đã làm. Và nghiệp mà mi đang làm đây
không phải là loại nghiệp mang mi tới sự giác ngộ viên mãn, đến sự giác ngộ
không tuyên bố hay đến đẳng cấp của vị đệ tử Phật, hoặc đến bất kỳ địa vị nào
như địa vị của phạm thiên hay Đế Thích (Sakka), hay ngai vàng của một vị Chuyển
Luân Vương, hay một vị vua thường, v.v… , mà đúng hơn đây là loại nghiệp sẽ dẫn
đến sự rời xa Giáo Pháp của mi, thậm chí đến địa vị của một người ăn những vật
bỏ đi, v.v…, và đến nhiều loại khổ trong các địa ngục, và vân vân. Do làm
(nghiệp) này mi chẳng khác gì một người muốn đánh người khác lại lượm một hòn
than hồng đang cháy hay một cục phân nhơ nhớp trong tay và trước hết tự làm
phỏng tay mình hay làm dơ tay mình vậy.
Sau khi đã xét lại
quyền sở hữu của nghiệp nơi tự thân theo cách này, hành giả cũng nên suy xét nó
nơi người khác nữa: và điều quan trọng của việc hắn nổi sân với ta là gì? Chẳng
phải nghiệp (kamma) bắt nguồn từ sân hận này của hắn sẽ dẫn đến sự tự hại mình
sao? Vì hắn là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là cha mẹ,
là quyến thuộc, là nơi nương nhờ của hắn; hắn sẽ trở thành kẻ thừa tự của những
nghiệp hắn đã làm.
Và nghiệp mà hắn đang làm đây không phải là loại nghiệp mang
hắn tới sự giác ngộ viên mãn, đến sự giác ngộ không tuyên bố hay đến đẳng cấp
của vị đệ tử Phật, hoặc đến bất kỳ địa vị nào như địa vị của phạm thiên hay Đế
Thích (Sakka), hay ngai vàng của một vị Chuyển Luân Vương, hay một vị vua
thường, v.v…, mà đúng hơn đây là loại nghiệp sẽ dẫn đến sự rời xa Giáo Pháp của
hắn, thậm chí đến địa vị của một người ăn những vật bỏ đi, v.v…, và đến nhiều
loại khổ khác trong các địa ngục, và vân vân. Do làm (nghiệp) này hắn chẳng
khác gì một người muốn ném bụi vào người khác lại đứng ngược gió và chỉ lãnh
bụi đầy mình mà thôi.
Vì điều này đã
được Đức Thế Tôn nói đến:
‘Khi kẻ ngu hại
người vô hại,
Người thanh tịnh,
không lầm lỗi,
Điều ác ấy sẽ quay
lại với kẻ ngu,
Như ngược gió
quăng bụi vậy’ (Dhp. 125)
Nhưng nếu sân hận
vẫn không lắng xuống khi hành giả suy xét về nghiệp theo cách này, thì hành giả
nên suy xét đến những đức đặc biệt trong cách cư xử của Đức Phật trước đây.
Đây là cách suy
xét: Bây giờ mi người đã xuất gia, chẳng phải là khi Thầy (Đức Phật) của mi còn
là một vị Bồ-tát, trước khi tìm được sự giác ngộ viên mãn, lúc vẫn còn đang
thực hành để chu toàn các ba-la-mật suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại
kiếp, Ngài đã không để cho sân hận làm ô nhiễm tâm ngài ngay cả khi những kẻ
thù cố tìm mọi cơ hội để giết hại ngài đó sao? Chẳng hạn như, trong chuyện tiền
thân Sīlavant (Sīlavant Jātaka 1, 216) khi những người bạn của Ngài đồng đứng
lên để ngăn vương quốc ba trăm lý của
ngài bị chiếm giữ bởi một vị vua thù
nghịch, người đã bị một viên đại thần độc ác xúi dục và chính hoàng hậu đã gieo
sự thù hận đó vào tâm trí ông ta, nhưng ngài không để cho những người bạn của
mình cầm vũ khí. Lại nữa, khi Ngài bị chôn sống, cùng với một ngàn người bạn,
lên tới cổ trong một cái hố mà người ta đào trong nghĩa địa, ngài cũng không
khởi một ý nghĩ sân hận. Và, sau khi tự cứu mạng mình bằng một nỗ lực anh
hùng được giúp đỡ bởi những con chó rừng
cào đất ra khi chúng đến để ăn những xác chết, ngài đã đi về phòng ngủ của mình
với sự trợ giúp của một phi nhân và nhìn thấy kẻ thù của mình đang nằm trên
chính giường của ngài, Ngài không nổi giận mà đối xử với y như một người bạn,
cùng nhau đưa ra lời hứa, và rồi ngài tuyên bố:
‘Lòng khát khao
dũng cảm’
bậc trí không thất
vọng;
Ta đã thấy chính
ta
Như Ta đã ước
nguyện.’
Và trong chuyện
tiền thân Khantivādi (Khantivādi Jātaka), vua Kasi ngu ngốc hỏi ngài ‘Này nhà
sư, ông dạy pháp gì?’ và ngài trả lời ‘Ta dạy pháp nhẫn nhục’; và khi nhà vua
cho người đánh ngài bằng roi gai và chặt đứt tay chân của ngài, ngài vẫn không
cảm thấy chút sân hận nào. (Ia. Iii, 39)
Có lẽ khi một
người trưởng thành và thực sự xuất gia sống đời không gia đình hành động theo
cách này thì không có gì kỳ diệu lắm; nhưng khi còn là một đứa trẻ thơ ngài
cũng đã làm như vậy. Vì trong chuyện tiền thân Cūla-Dhammapāla (Cūla-Dhammapāla
Jātaka) tay chân ngài đã bị phụ vương, đức Vua Mahā Patāpa, ra lệnh cho quân
lính cắt đứt giống như bốn búp măng, và mẫu hậu đã than khóc ngài như thế này:
‘Ôi đôi tay con
ta, Dhammapāla, đã bị cắt đứt
Đôi tay từng được
tắm trong trầm hương;
Con là kẻ thừa tự
của toàn cõi đất;
Hỡi đức vua, ta
nghẹn thở mất đi thôi!’ (Jā. iii, 181)
Thế mà cha ngài,
vẫn không thoả mãn, còn ra lệnh cho cắt đứt luôn đầu của ngài. Nhưng ngay cả
lúc đó ngài cũng không chút dấu vết sân hận, vì lẽ ngài đã quyết định vững
chắc: ‘Giờ là lúc để ta chế ngự tâm của ta; này hỡi Dhammapāla kia hãy vô tư
đối với bốn người này, đó là, đối với người cha đang ra lệnh cắt đầu ngươi, với
người đang chặt đầu ngươi, với người mẹ đang than khóc của ngươi, và với chính
bản thân ngươi.’
Và có lẽ, một
chúng sinh được làm người hành động theo cách này thì không có gì đáng kinh
ngạc lắm; nhưng khi làm thú vật ngài cũng đã hành động như thế. Vì trong lúc
đức Bồ-tát còn là một con voi có tên là Chaddanta ngài đã bị người ta đâm vào
rốn bằng một mũi lao tẩm thuốc độc. Nhưng ngay cả như vậy ngài cũng không để
cho sân hận đối với người thợ săn đã đâm ngài bị thương làm ô nhiễm tâm của
ngài, vì như chuyện kể:
‘Con voi, khi bị
đâm bằng một mũi lao,
Đã nói với thợ săn
với tâm không sân hận:
“Mục đích của
ngươi là gì? Lý do tại sao
Ngươi lại giết ta
như vậy? mục đích để làm gì?” (Jā. v, 51)
Và khi voi nói như
vậy, người thợ săn trả lời ‘Thưa ngài, Hoàng hậu của Vua Kāsi phái tôi đến đây
để lấy cặp ngà của ngài’, để hoàn thành ước muốn của hoàng hậu ngài đã cắt cặp
ngà của mình, cặp ngà mà sự rực rỡ tuyệt vời của nó chiếu sáng với những tia
sáng sáu mầu, và trao nó cho người thợ săn.
Lại nữa, khi đức
Bồ-tát làm Khỉ Chúa, người đàn ông mà ngài đã kéo hắn lên khỏi vực đá nghĩ,
‘Đây món ăn cho
người
Như những thú rừng
khác,
Vậy sao người đang
đói
Không giết khỉ để
ăn?
Ta sẽ đi tự tại
Lấy thịt khỉ để
dành;
Ta sẽ vượt hoang
địa
Với thịt khỉ làm
lương.’ (Jā. v. 71)
Nghĩ rồi hắn liền
lượm một hòn đá và ném mạnh vào đầu ngài. Nhưng Khỉ Chúa nhìn hắn với đôi mắt
đẫm lệ và nói,
‘Ồ chớ có làm thế,
bởi vì nếu không
thì
Số phận mà ngươi
gặt,
sẽ cản trở lâu dài
Đã có những người
khác
Bị những nghiệp
như vậy
Như ngươi làm hôm
nay’
Và với tâm không
sân hận, bất chấp sự đau đớn, ngài đã đưa người đàn ông ấy đến cuối cuộc hành
trình của hắn một cách an toàn.
Khi làm Long Vương
Campeyya cũng vậy, ngài không để cho sân hận khởi lên trong tâm lúc bị một ông
thầy bắt rắn đối xử một cách độc ác, vì như chuyện kể,
‘Ta đang sống
trong Pháp
Giữ Giới
Bát-quan-trai
Thầy rắn tới bắt
ta
Diễn trò tại cổng
thành.
Màu sắc nào hắn
nghĩ,
Màu xanh, vàng hay
đỏ,
Tuỳ theo ý hắn
nghĩ
Ta biến màu hắn
muốn;
Ta biến đất thành
nước,
Và biến nước thành
đất.
Nếu như ta nổi
giận
Ta có thể đốt cháy
Khiến y thành tro
tàn,
Nếu không làm chủ
tâm
Ta đã làm hỏng
giới;
Và ai làm hỏng
giới
Không thể nào đến
đích.’
Còn khi ngài làm
Long Vương Saṇkhapāla, lúc bị gánh đi trên một cây sào bởi mười sáu cậu bé trong
làng sau khi chúng đã dùng những mũi giáo nhọn đâm ngài bị thương ở tám chỗ và
nhét dây leo gai vào miệng vết thương, chúng còn làm cho ngài đau đớn quằn quại
khi xỏ một sợi dây rắn chắc qua mũi ngài và kéo lê để cho thân ngài va vào mặt
đất, mặc dù chỉ cần liếc một cái ngài có thể biến những đứa bé ấy thành than,
song ngài thậm chí không tỏ chút dấu vết sân hận nào trên đôi mắt, vì như
chuyện kể:
Này Ālāra,
‘Ngày mười bốn ,
mười lăm,
Ta thường giữ Trai
Giới,
Mười sáu đứa bé
đến
Mang theo dây và giáo.
Chúng tách mũi ta
ra,
Và qua khe hở đó
Chúng luồn vào sợi
dây
Kéo lê ta như thế,
Dù đau đớn quằn
quại,
Ta không để sân
hận
Quấy động ngày
Trai Giới.’ (Jā. v, 172)
Ngài đã thực hiện không chỉ những điều kỳ diệu
ấy mà còn nhiều điều kỳ diệu khác như đã được kể trong Mātuposaka Jātaka (Jā,
iv,90). Bây giờ, ở mức độ cao nhất sẽ là không thích hợp và không xứng đáng cho
mi để khởi lên những ý nghĩ tức giận, bởi lẽ mi đang cố gắng để được giống như Bậc Đạo Sư của mi, rằng Đức Thế Tôn đã đạt đến Toàn Giác và là bậc có
đức kham nhẫn đặc biệt không ai sánh bằng trong thế gian với các hàng chư thiên
của nó.
Nhưng nếu, khi
hành giả đã suy xét đến những phẩm chất đặc biệt trong cách ứng xử trước đây
của bậc Đạo Sư, mà sự tức giận vẫn không lắng xuống, bởi vì từ lâu hành giả đã
quen làm nô lệ cho những phiền não, thời hành giả nên hồi tưởng lại những bài
kinh (Sutta) đề cập đến sự vô thỉ (không khởi đầu) của vòng sinh tử luân hồi.
Đây là những gì Kinh nói: ‘Này các Tỳ-kheo, không đễ gì tìm được một chúng sinh
nào trước đây chưa từng là mẹ của các ông…là cha của các ông…là anh của các
ông…là chị của các ông…là con trai của các ông…là con gái của các ông’
(S.ii,189-190). Do vậy hành giả nên nghĩ về người đó như vầy: ‘Hình như người
này, khi là mẹ ta trong quá khứ đã mang ta trong bào thai cả mười tháng trường
và đã lau chùi phân, nước tiểu, nước rãi, nước mũi v.v… cho ta không hề nhờm
gớm coi đó như thể là trầm hương vàng, và để ta đùa chơi trên lòng bà, cho ta
bú mớm, bồng bế ta đi đây đi đó. Và người này khi là cha ta đã phải đi trên
những con đường mòn dê đi và những con đường làm trên những cột trụ cheo leo,
v.v… để theo đuổi việc buôn bán, đã vì ta mà liều mạng đi vào trong chiến trận
giữa hai hàng quân, hay trên những chiếc tàu vượt đại dương và làm những việc
khó khăn khác. Bằng phương tiện này hay phương tiện khác ông đã đem của cải về
nhà nghĩ là để nuôi dưỡng con cái. Và khi là anh, là chị, là con trai, con gái,
của ta, người này đã giúp cho ta việc này việc nọ. Vì thế, thật không xứng đáng
cho ta để ôm ấp oán thù người ấy trong tâm.
Nhưng nếu hành giả
vẫn không thể dập tắt ý nghĩ đó theo cách trên, hành giả nên ôn lại những lợi
ích của tâm từ như thế này: Bây giờ, mi là người xuất gia, chẳng phải là Đức
Thế Tôn đã nói như sau: ‘Này các Tỳ-kheo, khi từ tâm giải thoát được trau dồi,
tu tập, được thực hành thường xuyên, được làm cho thành cỗ xe, làm cho thành
nền tảng, được thiết lập, củng cố vững chắc, và thọ trì thích hợp, mười một
phước báu có thể trông đợi. Thế nào là mười một? Người ấy ngủ trong an lạc, thức
trong an lạc, không có những ác mộng, người ấy thân ái đối với mọi người, thân
ái đối với các hàng phi nhân, chư thiên hộ trì người ấy, lửa, thuốc độc, và vũ
khi không làm hại được người ấy, tâm dễ đắc định, vẻ mặt an tịnh, chết không
rối loạn, nếu không đắc cao hơn, vị ấy sẽ tái sanh cõi Phạm thiên’ (A.v,342).
Nếu không chấm dứt những ý nghĩ hiềm hận, kể như mi đã phủ nhận những lợi ích
này vậy.
Nhưng nếu hành giả
vẫn không thể chấm dứt (sân hận) theo cách vừa nói, hành giả nên cố gắng phân
giải thành các yếu tố. Như thế nào? Bây giờ mi, người đã xuất gia, khi mi tức
giận hắn, mi tức giận với cái gì? Phải chăng mi tức giận tóc? Hay lông? Hay
móng (tay, chân)?... hay mi tức giận nước tiểu? Hoặc, phải chăng mi tức giận
yếu tố đất (địa đại) trong tóc v.v...? hay yếu tố nước? hay yếu tố lửa? hay
phải chăng mi tức giận yếu tố gió? Hay trong số năm uẩn hay mười hai xứ hay
mười tám giới mà với những yếu tố đó vị này được gọi bằng tên như vậy, như vậy,
thì cái nào, có phải mi tức giận sắc uẩn? hay thọ uẩn? hay tưởng uẩn? hay hành
uẩn? hay thức uẩn? hay có phải mi tức giận nhãn xứ? hay sắc xứ? …hay mi tức
giận ý xứ? hay mi tức giận pháp xứ? Hay phải chăng mi tức giận nhãn giới? hay
mi tức giận sắc giới? hay mi tức giận nhãn thức giới?…Hay mi tức giận ý giới?
hay pháp giới? hay ý thức giới? Vì khi hành giả cố gắng phân giải thành các yếu
tố, sự tức giận của hành giả không thể tìm thấy chỗ đứng, giống như hạt cải
trên đầu mũi dùi hay bức vẽ trên hư không.
Nhưng nếu hành giả
không thể thực hiện sự phân giải thành các yếu tố được, hành giả nên cố gắng
tặng một món quà. Món quà có thể do bản thân hành giả tặng cho người kia hay tự
mình chấp nhận món quà của người kia. Tuy nhiên nếu sự nuôi mạng (sinh kế) của
người kia là không thanh tịnh và những món vật dụng của họ không thích hợp để
sử dụng, thì chính hành giả phải là người cho. Và nơi người làm điều này sự khó
chịu đối với người kia sẽ hoàn toàn lắng xuống. Và nơi người kia ngay cả sự oán
giận đã từng bám sát họ từ đời kiếp trước lúc đó cũng sẽ hạ ngay, như đã xảy ra
đối với ngài trưởng lão cao hạ, người đã nhận một cái bát được trao cho ngài
tại Tu viện Cittalapabbata do một vị trưởng lão thấp hạ chuyên ăn trong bát ,
người đã ba lần bị chính ông ta làm cho phải rời chỗ trú ngụ, và vị trưởng lão
này đã dâng tặng nó với những lời này ‘Bạch Ngài, cái bát này đáng giá tám đồng
đã được mẹ tôi, một tín nữ, dâng cúng và nó được nhận một cách chính đáng; mong
cho tín nữ hiền thiện ấy có được phước báu’. Hành động dâng tặng hay bố thí này
thực là có hiệu quả. Và điều này đã được nói như sau:
‘Tặng quà (để)
thuần hoá kẻ chưa thuần,
Tặng quà cho ta
mọi sự tốt lành;
Nhờ tặng quà (mà)
tình thế bớt căng,
Và hạ mình để nói
lời tử tế.’
Trên đây là những
gì được đưa ra trong Thanh Tịnh Đạo liên quan đến việc làm thế nào để loại trừ
sân hận. Nhưng khi hành giả đắc Bất Lai Thánh Đạo chỉ lúc đó sân mới không còn
khởi lên nữa mà thôi.