Wednesday, March 9, 2016

Bảy pháp này, này các Tỳ-kheo, làm thoả mãn và lợi ích cho kẻ thù xảy ra đối với một người sân hận, dù là nam hay nữ.

Kẻ sân hận xấu xí,
Đau khổ khi nằm ngủ,
Được các điều lợi ích
Lại cho là bất lợi.
Sân hận, nó đả thương,
Với thân với lời nói,
Làm mồi cho sân hận,
Tài sản bị tiêu vong.
Bị sân hận điên loạn,
Danh dự bị hủy diệt,
Bà con cùng bạn bè,
Lánh xa người sân hận.
Sân hận sanh bất lợi,
Sân hận dao động tâm,
Sợ hãi sanh từ trong,
người ấy không biết rõ.
Sân hận không biết lợi,
Sân hận không thấy pháp…(A. iv, 94)

Và, ‘Như một khúc gỗ từ giàn hỏa thiêu, bị cháy cả hai đầu, khúc giữa lại bị thối, chẳng dùng làm gỗ (xây dựng) ở làng, cũng chẳng dùng làm gỗ ở rừng được, Ta nói một người làm mồi cho sân hận cũng thế’ (A.ii, 95; Iti.90) ? Nếu bây giờ mi sân hận, mi sẽ là một người không thực hành lời dạy của Đức Thế Tôn; do lấy sân hận đáp lại người sân hận mi còn tệ hơn người sân ấy và không thắng được cuộc chiến khó thắng; chính mi sẽ làm cho mi những điều mà vốn chỉ có lợi cho kẻ thù, làm cho kẻ thù thỏa mãn, và mi cũng chẳng khác gì khúc gỗ ở giàn hỏa thiêu.

Nếu, sự tức giận của hành giả lắng xuống khi cố gắng và nỗ lực theo cách này, thì tốt. Bằng không, hành giả nên loại trừ sự khó chịu bằng cách nhớ lại một điều gì đó nơi người ấy đã được chế ngự, trong sạch,  cổ vũ cho niềm tin khi nhớ đến.
Vì một người có thể chế ngự hành vi nơi thân của mình với sự chế ngự trong quá trình thực hiện một nhiệm vụ rộng lớn nào đó được mọi người biết đến, mặc dù những hành vi về lời nói và ý nghĩ không được chế ngự. Thời những khẩu hành và ý hành ấy cần phải được bỏ qua và chỉ nhớ đến sự chế ngự nơi thân hành của người ấy mà thôi.

Một người khác có thể chế ngự được hành vi về lời nói của mình, và sự chế ngự của anh ta mọi người đều biết — anh ta có thể lanh lợi tự nhiên¬ trong việc tiếp đón (khách) một cách lịch thiệp, dễ nói chuyện, tương đắc, cởi mở, biết tôn trọng trong cách nói và có thể diễn giảng Pháp (Dhamma) với chất giọng ngọt ngào, giải thích Pháp với văn cú và chi tiết đầy đủ — mặc dù hành vi về thân và ý của anh ta không được chế ngự. Thời hai hành vi sau nên bỏ qua và chỉ nhớ sự chế ngự nơi khẩu hành của người ấy mà thôi.

Trong khi một người khác có thể chế ngự được hành vi ý thức của mình, và sự chế ngự của anh ta được thể hiện trong lúc lễ bái tại các điện thờ, v.v… rất hiển nhiên với mọi người. Vì khi một người không có sự chế ngự trong tâm đảnh lễ tại các điện thờ (Phật, xá-lợi) hay tại cây Bồ-đề hoặc đảnh lễ các bậc Trưởng lão, họ không làm điều ấy một cách cẩn trọng, và khi ngồi trong giảng đường nghe Pháp tâm họ cũng phóng đi lung tung hay ngủ gà ngủ gật. Ngược lại người tâm được chế ngự đảnh lễ một cách thận trọng và có suy nghĩ, nghe Pháp một cách chăm chú, ghi nhớ pháp, và biểu lộ niềm tin trong tâm của mình qua thân và khẩu. Vì thế, người khác chỉ có thể chế ngự được hành vi ý thức của mình, dù thân và khẩu hành không được chế ngự. Thời hãy nhớ đến sự chế ngự nơi ý hành ấy và bỏ qua thân và khẩu hành của họ.

Nhưng có thể một người khác thậm chí không có một hành vi nào trong ba hành vi này được chế ngự nơi họ. Thời lòng bi mẫn đối với người ấy phải được khơi dậy như vầy: Mặc dù hiện tại hắn ta đang lang thang trong thế giới loài người, tuy nhiên sau một số ngày nào đó hắn ta sẽ thấy mình nơi (một trong) tám đại địa ngục hay nơi mười sáu địa ngục nổi tiếng. Vì sự khó chịu cũng sẽ lắng dịu nhờ lòng bi mẫn vậy. 

Vẫn có một người khác cả ba hành vi đều được chế ngự. Trong trường hợp như vậy hành giả có thể nhớ đến bất cứ hành vi nào trong ba hành vi nơi người ấy mà hành giả thích nhất; vì sự tu tập tâm từ đến một người như vậy rất dễ.

Và để làm rõ ý nghĩa này bài kinh sau đây từ quyển V của Tăng Chi Kinh (Anguttara Nikaya) sẽ được trích dẫn đầy đủ: ‘Này các Tỳ-kheo, có năm cách xua tan hiềm hận, hiềm hận khởi lên ở chỗ nào nơi một vị Tỳ-kheo có thể được xua tan một cách hoàn toàn’
Nhưng nếu sự khó chịu vẫn khởi lên bất chấp những nỗ lực của hành giả, thời hành giả nên tự cảnh tỉnh mình như sau:

‘Nếu như có kẻ thù làm hại
Mi biết rồi lãnh vực của y
Sao lại còn tự hại thân mình
Tâm mi? — Đâu phải lãnh vực của nó.

Với nước mắt mi từ bỏ gia đình
Họ cũng nhân từ và giúp ích.
Thế sao không từ bỏ kẻ thù,
Sân hận đem hại đến cho mi?
Sân hận này gặm mòn tận gốc
Mọi giới đức mi từng gìn giữ–
Hỏi còn ai ngu ngốc như mi?

Người kia làm những điều bất thiện.
Vậy là mi bực –  đúng không?
Có nghĩa là mi muốn bắt chước 
Những lỗi lầm mà hắn phạm chăng?

Nếu người khác, gây nên phiền muộn,
Với hành vi khả ố khích mi,
Sao để cho nổi lên sân hận,
Và làm như hắn muốn mi làm?

Nếu như mi nổi giận, thì sao
Mi làm hắn khổ, hay không khổ!
Dù đã đau do sân mang lại
Chắc chắn mi đáng bị phạt bây giờ.

Nếu kẻ thù do sân mù quáng
Khởi sự trên đường khổ bước đi
Liệu mi có nổi sân như hắn
Nối gót theo đường khổ hay không?

Nếu kẻ thù làm mi tổn hại
Lầm lỗi do sân hận của  mi
Thì hãy mau dập tắt nó đi,
Vì sân ấy thật là phi lý.

Các pháp vốn sát-na tồn tại
Ngũ uẩn kia, qua đó họ làm
Việc khả ố, giờ cũng đã diệt,
Thế thì mi giận với cái chi?

Nó hại ai, và ai hại lại nó
Chính sự hiện hữu của mi
Mới là nhân gây đau khổ
Vậy cớ sao mi còn nổi sân?’

Nhưng nếu khi đã tự cảnh tỉnh mình như vậy mà sự tức giận cũng không lắng xuống, thì hành giả nên xét đến sự kiện rằng cả hành giả và người kia đều là những chủ nhân của nghiệp (kamma).

Ở đây, trước hết hành giả nên xét lại điều này nơi tự thân: Bây giờ điều quan trọng của việc mi nổi sân với hắn là gì? Chẳng phải nghiệp (kamma) bắt nguồn từ sân hận này của mi sẽ dẫn đến sự tự hại mình sao? Vì mi là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, 

nghiệp là cha mẹ, là quyến thuộc, là nơi nương nhờ của mi; mi sẽ trở thành kẻ thừa tự của những nghiệp mi đã làm. Và nghiệp mà mi đang làm đây không phải là loại nghiệp mang mi tới sự giác ngộ viên mãn, đến sự giác ngộ không tuyên bố hay đến đẳng cấp của vị đệ tử Phật, hoặc đến bất kỳ địa vị nào như địa vị của phạm thiên hay Đế Thích (Sakka), hay ngai vàng của một vị Chuyển Luân Vương, hay một vị vua thường, v.v… , mà đúng hơn đây là loại nghiệp sẽ dẫn đến sự rời xa Giáo Pháp của mi, thậm chí đến địa vị của một người ăn những vật bỏ đi, v.v…, và đến nhiều loại khổ trong các địa ngục, và vân vân. Do làm (nghiệp) này mi chẳng khác gì một người muốn đánh người khác lại lượm một hòn than hồng đang cháy hay một cục phân nhơ nhớp trong tay và trước hết tự làm phỏng tay mình hay làm dơ tay mình vậy.

Sau khi đã xét lại quyền sở hữu của nghiệp nơi tự thân theo cách này, hành giả cũng nên suy xét nó nơi người khác nữa: và điều quan trọng của việc hắn nổi sân với ta là gì? Chẳng phải nghiệp (kamma) bắt nguồn từ sân hận này của hắn sẽ dẫn đến sự tự hại mình sao? Vì hắn là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là cha mẹ, là quyến thuộc, là nơi nương nhờ của hắn; hắn sẽ trở thành kẻ thừa tự của những nghiệp hắn đã làm.

 Và nghiệp mà hắn đang làm đây không phải là loại nghiệp mang hắn tới sự giác ngộ viên mãn, đến sự giác ngộ không tuyên bố hay đến đẳng cấp của vị đệ tử Phật, hoặc đến bất kỳ địa vị nào như địa vị của phạm thiên hay Đế Thích (Sakka), hay ngai vàng của một vị Chuyển Luân Vương, hay một vị vua thường, v.v…, mà đúng hơn đây là loại nghiệp sẽ dẫn đến sự rời xa Giáo Pháp của hắn, thậm chí đến địa vị của một người ăn những vật bỏ đi, v.v…, và đến nhiều loại khổ khác trong các địa ngục, và vân vân. Do làm (nghiệp) này hắn chẳng khác gì một người muốn ném bụi vào người khác lại đứng ngược gió và chỉ lãnh bụi đầy mình mà thôi.
Vì điều này đã được Đức Thế Tôn nói đến:

‘Khi kẻ ngu hại người vô hại,
Người thanh tịnh, không lầm lỗi,
Điều ác ấy sẽ quay lại với kẻ ngu,
Như ngược gió quăng bụi vậy’ (Dhp. 125)

Nhưng nếu sân hận vẫn không lắng xuống khi hành giả suy xét về nghiệp theo cách này, thì hành giả nên suy xét đến những đức đặc biệt trong cách cư xử của Đức Phật trước đây.
Đây là cách suy xét: Bây giờ mi người đã xuất gia, chẳng phải là khi Thầy (Đức Phật) của mi còn là một vị Bồ-tát, trước khi tìm được sự giác ngộ viên mãn, lúc vẫn còn đang thực hành để chu toàn các ba-la-mật suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, Ngài đã không để cho sân hận làm ô nhiễm tâm ngài ngay cả khi những kẻ thù cố tìm mọi cơ hội để giết hại ngài đó sao? Chẳng hạn như, trong chuyện tiền thân Sīlavant (Sīlavant Jātaka 1, 216) khi những người bạn của Ngài đồng đứng lên để ngăn vương quốc ba trăm lý của 

ngài bị chiếm giữ bởi một vị vua thù nghịch, người đã bị một viên đại thần độc ác xúi dục và chính hoàng hậu đã gieo sự thù hận đó vào tâm trí ông ta, nhưng ngài không để cho những người bạn của mình cầm vũ khí. Lại nữa, khi Ngài bị chôn sống, cùng với một ngàn người bạn, lên tới cổ trong một cái hố mà người ta đào trong nghĩa địa, ngài cũng không khởi một ý nghĩ sân hận. Và, sau khi tự cứu mạng mình bằng một nỗ lực anh hùng  được giúp đỡ bởi những con chó rừng cào đất ra khi chúng đến để ăn những xác chết, ngài đã đi về phòng ngủ của mình với sự trợ giúp của một phi nhân và nhìn thấy kẻ thù của mình đang nằm trên chính giường của ngài, Ngài không nổi giận mà đối xử với y như một người bạn, cùng nhau đưa ra lời hứa, và rồi ngài tuyên bố:

‘Lòng khát khao dũng cảm’
bậc trí không thất vọng;
Ta đã thấy chính ta
Như Ta đã ước nguyện.’

Và trong chuyện tiền thân Khantivādi (Khantivādi Jātaka), vua Kasi ngu ngốc hỏi ngài ‘Này nhà sư, ông dạy pháp gì?’ và ngài trả lời ‘Ta dạy pháp nhẫn nhục’; và khi nhà vua cho người đánh ngài bằng roi gai và chặt đứt tay chân của ngài, ngài vẫn không cảm thấy chút sân hận nào. (Ia. Iii, 39)

Có lẽ khi một người trưởng thành và thực sự xuất gia sống đời không gia đình hành động theo cách này thì không có gì kỳ diệu lắm; nhưng khi còn là một đứa trẻ thơ ngài cũng đã làm như vậy. Vì trong chuyện tiền thân Cūla-Dhammapāla (Cūla-Dhammapāla Jātaka) tay chân ngài đã bị phụ vương, đức Vua Mahā Patāpa, ra lệnh cho quân lính cắt đứt giống như bốn búp măng, và mẫu hậu đã than khóc ngài như thế này:

‘Ôi đôi tay con ta, Dhammapāla, đã bị cắt đứt
Đôi tay từng được tắm trong trầm hương;
Con là kẻ thừa tự của toàn cõi đất;
Hỡi đức vua, ta nghẹn thở mất đi thôi!’ (Jā. iii, 181)

Thế mà cha ngài, vẫn không thoả mãn, còn ra lệnh cho cắt đứt luôn đầu của ngài. Nhưng ngay cả lúc đó ngài cũng không chút dấu vết sân hận, vì lẽ ngài đã quyết định vững chắc: ‘Giờ là lúc để ta chế ngự tâm của ta; này hỡi Dhammapāla kia hãy vô tư đối với bốn người này, đó là, đối với người cha đang ra lệnh cắt đầu ngươi, với người đang chặt đầu ngươi, với người mẹ đang than khóc của ngươi, và với chính bản thân ngươi.’

Và có lẽ, một chúng sinh được làm người hành động theo cách này thì không có gì đáng kinh ngạc lắm; nhưng khi làm thú vật ngài cũng đã hành động như thế. Vì trong lúc đức Bồ-tát còn là một con voi có tên là Chaddanta ngài đã bị người ta đâm vào rốn bằng một mũi lao tẩm thuốc độc. Nhưng ngay cả như vậy ngài cũng không để cho sân hận đối với người thợ săn đã đâm ngài bị thương làm ô nhiễm tâm của ngài, vì như chuyện kể:

‘Con voi, khi bị đâm bằng một mũi lao,
Đã nói với thợ săn với tâm không sân hận:
“Mục đích của ngươi là gì? Lý do tại sao
Ngươi lại giết ta như vậy? mục đích để làm gì?” (Jā. v, 51)

Và khi voi nói như vậy, người thợ săn trả lời ‘Thưa ngài, Hoàng hậu của Vua Kāsi phái tôi đến đây để lấy cặp ngà của ngài’, để hoàn thành ước muốn của hoàng hậu ngài đã cắt cặp ngà của mình, cặp ngà mà sự rực rỡ tuyệt vời của nó chiếu sáng với những tia sáng sáu mầu, và trao nó cho người thợ săn.

Lại nữa, khi đức Bồ-tát làm Khỉ Chúa, người đàn ông mà ngài đã kéo hắn lên khỏi vực đá  nghĩ,
‘Đây món ăn cho người
Như những thú rừng khác,
Vậy sao người đang đói
Không giết khỉ để ăn?
Ta sẽ đi tự tại
Lấy thịt khỉ để dành;
Ta sẽ vượt hoang địa
Với thịt khỉ làm lương.’ (Jā. v. 71)

Nghĩ rồi hắn liền lượm một hòn đá và ném mạnh vào đầu ngài. Nhưng Khỉ Chúa nhìn hắn với đôi mắt đẫm lệ và nói,

‘Ồ chớ có làm thế,
bởi vì nếu không thì
Số phận mà ngươi gặt,
sẽ cản trở lâu dài
Đã có những người khác
Bị những nghiệp như vậy
Như ngươi làm hôm nay’

Và với tâm không sân hận, bất chấp sự đau đớn, ngài đã đưa người đàn ông ấy đến cuối cuộc hành trình của hắn một cách an toàn.

Khi làm Long Vương Campeyya cũng vậy, ngài không để cho sân hận khởi lên trong tâm lúc bị một ông thầy bắt rắn đối xử một cách độc ác, vì như chuyện kể,

‘Ta đang sống trong Pháp
Giữ Giới Bát-quan-trai
Thầy rắn tới bắt ta
Diễn trò tại cổng thành.
Màu sắc nào hắn nghĩ,
Màu xanh, vàng hay đỏ,
Tuỳ theo ý hắn nghĩ
Ta biến màu hắn muốn;
Ta biến đất thành nước,
Và biến nước thành đất.
Nếu như ta nổi giận
Ta có thể đốt cháy
Khiến y thành tro tàn,
Nếu không làm chủ tâm
Ta đã làm hỏng giới;
Và ai làm hỏng giới
Không thể nào đến đích.’

Còn khi ngài làm Long Vương Saṇkhapāla, lúc bị gánh đi trên một cây sào bởi mười sáu cậu bé trong làng sau khi chúng đã dùng những mũi giáo nhọn đâm ngài bị thương ở tám chỗ và nhét dây leo gai vào miệng vết thương, chúng còn làm cho ngài đau đớn quằn quại khi xỏ một sợi dây rắn chắc qua mũi ngài và kéo lê để cho thân ngài va vào mặt đất, mặc dù chỉ cần liếc một cái ngài có thể biến những đứa bé ấy thành than, song ngài thậm chí không tỏ chút dấu vết sân hận nào trên đôi mắt, vì như chuyện kể:

Này Ālāra,
‘Ngày mười bốn , mười lăm,
Ta thường giữ Trai Giới,
Mười sáu đứa bé đến
Mang theo dây và giáo.
Chúng tách mũi ta ra,
Và qua khe hở đó
Chúng luồn vào sợi dây
Kéo lê ta như thế,
Dù đau đớn quằn quại,
Ta không để sân hận
Quấy động ngày Trai Giới.’ (Jā. v, 172)

 Ngài đã thực hiện không chỉ những điều kỳ diệu ấy mà còn nhiều điều kỳ diệu khác như đã được kể trong Mātuposaka Jātaka (Jā, iv,90). Bây giờ, ở mức độ cao nhất sẽ là không thích hợp và không xứng đáng cho mi để khởi lên những ý nghĩ tức giận, bởi lẽ mi đang cố gắng để  được giống như Bậc Đạo Sư của mi, rằng  Đức Thế Tôn đã đạt đến Toàn Giác và là bậc có đức kham nhẫn đặc biệt không ai sánh bằng trong thế gian với các hàng chư thiên của nó.

Nhưng nếu, khi hành giả đã suy xét đến những phẩm chất đặc biệt trong cách ứng xử trước đây của bậc Đạo Sư, mà sự tức giận vẫn không lắng xuống, bởi vì từ lâu hành giả đã quen làm nô lệ cho những phiền não, thời hành giả nên hồi tưởng lại những bài kinh (Sutta) đề cập đến sự vô thỉ (không khởi đầu) của vòng sinh tử luân hồi. Đây là những gì Kinh nói: ‘Này các Tỳ-kheo, không đễ gì tìm được một chúng sinh nào trước đây chưa từng là mẹ của các ông…là cha của các ông…là anh của các ông…là chị của các ông…là con trai của các ông…là con gái của các ông’ (S.ii,189-190). Do vậy hành giả nên nghĩ về người đó như vầy: ‘Hình như người này, khi là mẹ ta trong quá khứ đã mang ta trong bào thai cả mười tháng trường và đã lau chùi phân, nước tiểu, nước rãi, nước mũi v.v… cho ta không hề nhờm gớm coi đó như thể là trầm hương vàng, và để ta đùa chơi trên lòng bà, cho ta bú mớm, bồng bế ta đi đây đi đó. Và người này khi là cha ta đã phải đi trên những con đường mòn dê đi và những con đường làm trên những cột trụ cheo leo, v.v… để theo đuổi việc buôn bán, đã vì ta mà liều mạng đi vào trong chiến trận giữa hai hàng quân, hay trên những chiếc tàu vượt đại dương và làm những việc khó khăn khác. Bằng phương tiện này hay phương tiện khác ông đã đem của cải về nhà nghĩ là để nuôi dưỡng con cái. Và khi là anh, là chị, là con trai, con gái, của ta, người này đã giúp cho ta việc này việc nọ. Vì thế, thật không xứng đáng cho ta để ôm ấp oán thù người ấy trong tâm.

Nhưng nếu hành giả vẫn không thể dập tắt ý nghĩ đó theo cách trên, hành giả nên ôn lại những lợi ích của tâm từ như thế này: Bây giờ, mi là người xuất gia, chẳng phải là Đức Thế Tôn đã nói như sau: ‘Này các Tỳ-kheo, khi từ tâm giải thoát được trau dồi, tu tập, được thực hành thường xuyên, được làm cho thành cỗ xe, làm cho thành nền tảng, được thiết lập, củng cố vững chắc, và thọ trì thích hợp, mười một phước báu có thể trông đợi. Thế nào là mười một? Người ấy ngủ trong an lạc, thức trong an lạc, không có những ác mộng, người ấy thân ái đối với mọi người, thân ái đối với các hàng phi nhân, chư thiên hộ trì người ấy, lửa, thuốc độc, và vũ khi không làm hại được người ấy, tâm dễ đắc định, vẻ mặt an tịnh, chết không rối loạn, nếu không đắc cao hơn, vị ấy sẽ tái sanh cõi Phạm thiên’ (A.v,342). Nếu không chấm dứt những ý nghĩ hiềm hận, kể như mi đã phủ nhận những lợi ích này vậy.

Nhưng nếu hành giả vẫn không thể chấm dứt (sân hận) theo cách vừa nói, hành giả nên cố gắng phân giải thành các yếu tố. Như thế nào? Bây giờ mi, người đã xuất gia, khi mi tức giận hắn, mi tức giận với cái gì? Phải chăng mi tức giận tóc? Hay lông? Hay móng (tay, chân)?... hay mi tức giận nước tiểu? Hoặc, phải chăng mi tức giận yếu tố đất (địa đại) trong tóc v.v...? hay yếu tố nước? hay yếu tố lửa? hay phải chăng mi tức giận yếu tố gió? Hay trong số năm uẩn hay mười hai xứ hay mười tám giới mà với những yếu tố đó vị này được gọi bằng tên như vậy, như vậy, thì cái nào, có phải mi tức giận sắc uẩn? hay thọ uẩn? hay tưởng uẩn? hay hành uẩn? hay thức uẩn? hay có phải mi tức giận nhãn xứ? hay sắc xứ? …hay mi tức giận ý xứ? hay mi tức giận pháp xứ? Hay phải chăng mi tức giận nhãn giới? hay mi tức giận sắc giới? hay mi tức giận nhãn thức giới?…Hay mi tức giận ý giới? hay pháp giới? hay ý thức giới? Vì khi hành giả cố gắng phân giải thành các yếu tố, sự tức giận của hành giả không thể tìm thấy chỗ đứng, giống như hạt cải trên đầu mũi dùi hay bức vẽ trên hư không.

Nhưng nếu hành giả không thể thực hiện sự phân giải thành các yếu tố được, hành giả nên cố gắng tặng một món quà. Món quà có thể do bản thân hành giả tặng cho người kia hay tự mình chấp nhận món quà của người kia. Tuy nhiên nếu sự nuôi mạng (sinh kế) của người kia là không thanh tịnh và những món vật dụng của họ không thích hợp để sử dụng, thì chính hành giả phải là người cho. Và nơi người làm điều này sự khó chịu đối với người kia sẽ hoàn toàn lắng xuống. Và nơi người kia ngay cả sự oán giận đã từng bám sát họ từ đời kiếp trước lúc đó cũng sẽ hạ ngay, như đã xảy ra đối với ngài trưởng lão cao hạ, người đã nhận một cái bát được trao cho ngài tại Tu viện Cittalapabbata do một vị trưởng lão thấp hạ chuyên ăn trong bát , người đã ba lần bị chính ông ta làm cho phải rời chỗ trú ngụ, và vị trưởng lão này đã dâng tặng nó với những lời này ‘Bạch Ngài, cái bát này đáng giá tám đồng đã được mẹ tôi, một tín nữ, dâng cúng và nó được nhận một cách chính đáng; mong cho tín nữ hiền thiện ấy có được phước báu’. Hành động dâng tặng hay bố thí này thực là có hiệu quả. Và điều này đã được nói như sau:

‘Tặng quà (để) thuần hoá kẻ chưa thuần,
Tặng quà cho ta mọi sự tốt lành;
Nhờ tặng quà (mà) tình thế bớt căng,
Và hạ mình để nói lời tử tế.’


Trên đây là những gì được đưa ra trong Thanh Tịnh Đạo liên quan đến việc làm thế nào để loại trừ sân hận. Nhưng khi hành giả đắc Bất Lai Thánh Đạo chỉ lúc đó sân mới không còn khởi lên nữa mà thôi.