Để đến một đô thị có bốn cổng
thành, người từ hướng đông với những hàng hoá sản xuất từ phương đông đi vào
(đô thị) bằng cổng đông…người đến từ hướng nam…người đến từ hướng tây…người đến
từ hướng bắc với những hàng hoá sản xuất từ phương bắc đi vào từ cổng bắc. Niết-bàn
cũng giống như đô thị. Bát Thánh Đạo siêu thế giống như cổng thành. Thân, thọ,
tâm và pháp giống như bốn hướng chính trong không gian. Những vị nhập vào Niết-bàn
bằng quán thân đã hành theo mười bốn cách giống như những người đến từ hướng
đông với những hàng hoá sản xuất từ phương đông. Những vị nhập vào Niết-bàn bằng
quán thọ đã hành theo chín cách giống như những người đến từ hướng nam với những
hàng hoá sản xuất từ phương nam. Những vị nhập vào Niết-bàn bằng quán tâm đã
hành theo mười sáu cách giống như những người đến từ hướng tây với những hàng
hoá sản xuất từ phương tây. Những vị nhập vào Niết-bàn bằng quán pháp đã hành
theo năm cách giống như những người đến từ hướng bắc với những hàng hoá sản xuất
từ phương bắc vậy.
Phụ chú giải nói rằng bởi vì tất
cả chúng đều nhập vào một, đó là nhập vào Niết-bàn, vì vậy bốn niệm xứ chỉ là một.
Và vì lẽ các niệm xứ có khác nhau nhưng cuối cùng chỉ dẫn đến Niết-bàn, nên
chúng được nói là ‘gặp nhau trong một’.
Quý vị không nên hiểu lầm về sự
giải thích vừa đưa ra. Ở đây tôi muốn giải thích thêm một chút cho dễ hiểu.
Trong Tương Ưng Kinh (Samyutta Nikaya) có hai bài kinh Aparijānana (Aparijānana
Sutta). Trong hai kinh đó, Đức Phật nói: ‘Này
các Tỳ kheo, nếu các vị không tuệ tri tất
cả danh và sắc với ba loại đạt tri, các vị không thể thoát khỏi khổ.’ Ba loại
đạt tri (pariññā) là trí đạt tri
(ñāta pariññā), thẩm đạt tri (tīraṇa
pariññā) và trừ đạt tri (pahāna
pariññā). Trí đạt tri bao gồm Danh Sắc Phân Tích Trí (nāmarūpa-paricchedañāṇa)
và Phân Biệt Nhân Duyên Trí (paccaya-pariggaha-ñāṇa). Thẩm đạt tri bao gồm Thẩm
Sát Tam Tướng Trí (sammasana ñāṇa), và Sanh Diệt Trí (udayabbā ñāṇa). Hai loại
minh-sát trí này phân biệt sự sanh và diệt của danh-sắc cũng như các nhân của
chúng, vì thế chúng được gọi là thẩm đạt trí (tīraṇa pariññā). Trừ đạt tri bao
gồm các minh sát trí cao hơn từ Hoại Diệt Trí (bhaṅgañāṇa) đến Đạo Trí (maggañāṇa).
Ngoại trừ Đạo Trí, trí đoạn trừ các phiền não một cách hoàn toàn, các minh sát
trí còn lại đoạn trừ phiền não chỉ tạm thời mà thôi. Vì thế theo kinh
Aparijānana, nếu chúng ta muốn chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna), để thoát khỏi vòng
tử sanh luân hồi và khổ đau, chúng ta phải biết rõ năm uẩn, các nhân của chúng
và quán tất cả như vô thường, khổ và vô ngã với ba loại đạt tri.
Hơn nữa, chú giải Abhidhamma
(Vi-diệu-Pháp) còn giải thích: Do quán chỉ một mình sắc hay chỉ một mình danh
người ta không thể nào chứng đắc Niết-bàn (Nibbāna). Vì thế, người hành thiền
có lúc phải quán sắc và có lúc phải quán danh. Trong khi quán sắc và danh, nếu
người ấy quán chúng chỉ bên trong hoặc chỉ bên ngoài thôi thì cũng không đủ để
chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna). Vì thế người hành thiền đôi khi phải quán danh-sắc
bên trong, và đôi khi phải quán danh-sắc bên ngoài nữa.
Trong Kinh Đại Niệm Xứ
(Mahāsatipaṭṭhāna Sutta), Đức Phật dạy bốn niệm xứ hay bốn chỗ thiết lập quán
niệm: quán thân (kāyānupassanā), quán thọ (vedanānuāssanā), quán tâm
(cittānupassanā) và quán pháp (dhammānupassanā). Trong quán thân hành giả phải
nhấn mạnh sắc. Tuy nhiên, quán một mình sắc thôi không đủ. Hành giả cũng phải
quán danh nữa. Trong quán thọ Đức Phật nhấn mạnh cảm thọ. Cảm thọ là một loại
danh. Trong trường hợp này cũng vậy, quán một mình thọ thôi không đủ. Hành giả
phải quán sắc và các danh khác nữa. Trong quán tâm Đức Phật nhấn mạnh tâm. Tuy
nhiên, quán một mình tâm không đủ. Hành giả cũng phải quán sắc và các danh khác
nữa. Trong quán pháp Đức Phật dạy quán năm uẩn theo những cách khác nhau. Vì thế
quý vị không nên hiểu lầm rằng chỉ cần thực hành một trong bốn niệm xứ này là đủ
để chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna).
Trong bài kinh ấy Đức Phật nói
như sau:
‘Thế
nào là bốn? Ở đây, này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo sống quán thân là (trên) thân với
nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm, vượt qua tham và ưu đối với thế gian. Vị ấy quán các cảm thọ là các cảm thọ với nhiệt
tâm, tỉnh giác và chánh niệm, vượt qua tham và ưu đối với thế gian. Vị ấy quán
tâm là tâm với nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm, vượt qua tham và ưu đối với
thế gian. Vị ấy quán các pháp là các pháp với nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm,
vượt qua tham và ưu đối với thế gian.[1]
Trong số những người nghe
pháp, Đức Phật chỉ nhấn mạnh đến các vị Tỳ kheo. Thế nào là một vị Tỳ kheo? Ở
đây, ‘bhikkhu’ hay Tỳ kheo là từ để chỉ một người đang nhiệt tâm cố gắng hoàn tất
việc thực hành những lời dạy của Đức Phật. Tất nhiên có những chúng sanh khác
như chư thiên và con người chắc chắn cũng đang nỗ lực để hoàn tất công việc
này. Nhưng bởi vì làm một vị Tỳ kheo là lý tưởng nhất cho việc thực hành, nên Đức
Phật chỉ nói ‘này các Tỳ kheo’. Trong
số những người chấp nhận lời dạy của Đức Phật, Tỳ kheo là cao nhất vì họ thích
hợp để tiếp nhận những lời giáo huấn trên nhiều phương diện. Hơn nữa, khi loại
người cao nhất, ở đây là các vị Tỳ kheo, được đề cập, số còn lại kể như đã được
đề cập. Cũng giống như trong một nhóm người thuộc hoàng tộc hay trong một buổi
lâm triều; khi đức vua được đề cập thì những tuỳ tùng khác đã được đề cập vậy.
Trong kinh, Đức Phật nói ‘vị Tỳ
kheo sống quán thân là thân.’ Thế nào là thân? Ở đây, thân muốn nói đến sắc
thân (rūpa-kāya), đó là, một nhóm sắc. Như tôi vừa nói, quán một mình sắc thôi
thì không đủ để chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna). Hành giả cũng còn phải quán danh
là vô thường, khổ và vô ngã để chứng ngộ Niết-bàn nữa. Nhưng trong quán thân đức
Phật nhấn mạnh chỉ thân hay chỉ một nhóm sắc thôi, bởi vì ngài muốn dạy danh
riêng trong quán thọ, quán tâm và quán pháp.
Thân là một nhóm các thành phần
vật chất lớn và nhỏ, như tóc, lông, móng, răng, da…Trong nghĩa của một tập hợp
thân giống như một nhóm các con voi, một nhóm các cỗ xe ngựa.
Trong nghĩa tập trung vào những
gì bất tịnh, chính thân được xem là đáng ghê tởm. Thân là nơi sanh ra sự ghê tởm,
những thứ cực kỳ gớm ghiếc. Nơi sanh tức
là nơi xuất phát ra. Xuất phát ra cái gì? Những vật gớm ghiếc như tóc, lông...
Do đó, thân là nơi xuất phát của những thứ đáng ghê tởm hay những thứ đê tiện.
Tại sao chữ ‘thân’ được dùng
hai lần trong đoạn này: ‘quán thân là thân’? Chính là để xác định đối tượng và
cô lập nó lại (với các đối tượng khác – thọ, tâm và pháp). Và chính để xem xét
kỹ tính chất kết hợp rõ ràng của những thứ giống như tính liên tục.
Có ba loại khối tưởng về sắc:
khối tưởng về tính tương tục (santati ghana),
khối tưởng về nhóm (samūha ghana)
và khối tưởng về phận sự (kicca ghana).
Nếu một người không thể thấy các tổng hợp sắc (rūpa kalāpa), họ không thể phá vỡ
được khối tưởng về tính tương tục. Chỉ khi người ấy thấy các kalāpas của sắc (tổng
hợp sắc) khối tưởng về tính tương tục này mới biến mất. Mặc dù quý vị có thể thấy
các kalāpas, song nếu quý vị không phân tích được các kalāpas ấy, quý vị cũng không thể phá vỡ được khối tưởng
về nhóm. Điều đó có nghĩa rằng quý vị không nhận ra được sắc chân đế. Chỉ khi
quý vị phân tích chúng để thấy tất cả các loại sắc chân đế trong từng mỗi
kalāpa, như địa đại, thuỷ đại, hoả đại và phong đại,…thì khối tưởng về nhóm sẽ
biến mất. Mặc dù quý vị có thể phân tích được nhiều kalāpa và thấy các sắc chân
đế trong chúng, song nếu quý vị không phân biệt được phận sự của mỗi loại sắc
chân đế trong từng kalāpa, quý vị cũng không thể chứng đắc Niết-bàn (Nibbāna).
Mỗi loại sắc có phận sự khác nhau. Quý vị
phải cố gắng phân biệt mỗi loại sắc một cách hệ thống bằng cách phân biệt đặc
tính, nhiệm vụ, sự thể hiện và nhân gần của nó. Chính vì điều này mà Đức Phật dạy
chúng ta quán thân chỉ là thân thôi.
Chữ ‘thân’ đã được Đức Phật dùng hai lần ở đây để xác định điều đó.
Không quán thọ, tâm và pháp
trong thân, mà chỉ có quán thân. Bởi lẽ ấy, sự xác định qua lối cô lập đã được
nêu ra bằng cách chỉ cho các vị Tỳ kheo thấy cách quán thân chỉ trong những thuộc
tính gọi là thân mà thôi.
Tôi sẽ giải thích điểm này với
một ví dụ. Trong khi quý vị đang hành thiền, có thể có sự cứng hay nóng ở một
phần nào đó trên thân của quý vị. Do sự cứng hay nóng này quý vị cảm thấy đau.
Nếu quý vị quán sự cứng hay nóng, vốn là sắc như một cảm thọ, thì đó là sai.
Theo lời dạy của Đức Phật, quý vị phải quán sắc là sắc. Quý vị không nên quán sự
cứng hay nóng, vốn là sắc kể như cảm thọ, nhưng là danh. Bởi lẽ này, Đức Phật dạy
rằng hành giả phải quán thân chỉ là thân. Quý vị không nên quán thân như là cảm
thọ, hay tâm hay pháp.
Trong thân, ngoài những phần lớn
và nhỏ của nó ra, không có sự quán một vật đồng nhất nào hết. Ngoài những vật
như tóc, lông, móng..ra không có sự quán về một người đàn ông hay một người đàn
bà ở đây. Không có gì ngoài sắc tứ đại và các sắc do tứ đại sanh (sắc y đại sinh hay sở tạo sắc) trong
thân.
Nếu quý vị hành thiền niệm hơi
thở một cách hệ thống cho đến tứ thiền, ánh sáng trí tuệ của quý vị sẽ rất mạnh
và đầy năng lực. Với sự trợ giúp của ánh sáng, nếu quý vị nhìn vào trong thân của
mình, quý vị sẽ thấy ba mươi hai bộ phận của thân một cách rõ ràng. Ngoài những
thân phần ấy không còn gì khác nữa cả. Sự tập hợp của ba mươi hai bộ phận này
được gọi là một người đàn ông hay một người đàn bà.
Còn nếu quý vị hành thiền tứ đại
một cách hệ thống, quý vị sẽ thấy rất nhiều các kalāpas (tổng hợp sắc). Nếu quý
vị phân tích các kalāpas này thêm nữa, quý vị sẽ thấy bốn loại sắc chính, đó
là, địa đại, thuỷ đại, hoả đại và phong đại (các yếu tố đất, nước, lửa và gió),
và các sắc y đại sanh như màu, mùi, vị và dưỡng chất. Không có gì ngoài sắc tứ
đại và sắc y đại sanh trong thân.
Có ba loại thấy: (1) Tính cách
quán sự tập hợp của những bộ phận chính và phụ, như đầu, hai tay và hai chân,
giống như thấy các bộ phận cấu thành của một chiếc xe; (2) Tính cách quán sự tập
hợp của tóc, lông và v.v… giống như thấy các thành phần của một đô thị; (3)
Tính cách quán sự tập hợp của các sắc chính và sắc phụ giống như bóc các lớp vỏ
của một thân cây chuối, hay giống như mở một nắm tay trống không. Vì sao? Bởi
vì ngay khi sắc chính (tứ đại) và sắc phụ (sắc y đại sanh) sanh lên chúng liền
diệt; không có bản chất thường hằng nào trong chúng. Do đó, việc xem xét kỹ
tính chất kết hợp rõ ràng của thân đã được hướng dẫn bằng cách chỉ cho thấy
thân trong hình thức của một sự tập hợp trên nhiều phương diện.
Trong thân, ngoài sự kết hợp
đã đề cập, không có thân, không có đàn ông, đàn bà hay bất cứ thứ gì khác được
thấy. Từ các nhóm vật chất (sắc) thuần tuý đã nói ở trên người ta đã sinh ra đủ loại tà kiến. Bởi thế mà các bậc
thầy chú giải cổ xưa đã nói:
Cái
họ thấy không phải thấy đúng;
Cái
được thấy họ không thấy đúng;
Không
thấy đúng họ bị trói chặt;
Và kẻ ngu, khi đã bị trói chặt,
Không
thể nào thoát khỏi trầm luân.
Tôi sẽ giải thích bài kệ trên
cho quý vị hiểu. Tất cả những ai hành thiền đều phải thấy danh và sắc tối hậu
hay danh và sắc chân đế. Nhưng nếu họ thấy rằng ‘đây là một người đàn ông,’ ‘đây là một người đàn bà,’ ‘đây là con trai
của tôi,’ ‘đây là con gái của tôi,’ ‘đây là cha tôi,’ ‘đây là mẹ tôi,’ … những
loại thấy này là những gì họ không nên thấy. Đây là những gì bậc thầy chú giải
muốn ám chỉ qua câu ‘cái họ thấy không phải
thấy đúng; cái được thấy họ không thấy đúng’. Đây không phải là một cách thấy
đúng. Tại sao? Cái thấy ấy sẽ làm gia tăng thêm tham, sân và những phiền não
khác. Nói chung nó là nhân cơ bản tạo ra rất nhiều phiền não. Trong Pāḷi cái thấy
này được gọi là micchābhinivesa (ngã chấp tà kiến); từ các nhóm vật chất (sắc)
nó sanh ra tà kiến theo nhiều cách. ‘Họ
không thấy đúng’ có nghĩa là họ không thể thâm nhập vào danh và sắc chân đế,
và do đó đã bị trói chặt. “Trói chặt’ có nghĩa là họ không thể thoát khỏi những
tà kiến. Nếu người ấy thấy rằng ‘đây là một người đàn ông,’ ‘đây là một người
đàn bà,’ v.v…, cái thấy đó là vô minh (avijjā). Nếu có vô minh mạnh mẽ tham ái
(taṇhā) sẽ nảy sanh. Tham ái lập đi lập lại nhiều lần gọi là thủ (upādāna). Một
khi đã có vô minh, ái và thủ, thì cũng sẽ có các hành nghiệp (saṅkhāra). Hành
nghiệp này có thể là những thiện pháp (kusaladhamma) hoặc bất thiện pháp
(akusaladhamma). Chúng sẽ tạo ra một sự tái sanh mới hay một ngũ uẩn mới. Theo
cách này vòng luân hồi (saṁsāra) sẽ xảy ra không ngừng. Vì thế kẻ ngu không thể
nào thoát khỏi trầm luân. Chúng ta phải thực hành như thế nào để loại trừ vô
minh, tham ái và chấp thủ? Chúng ta phải thực hành để biết rõ sự thực, đó là biết
rõ danh và sắc chân đế.
Và ở đây, đối với đoạn ‘Để xác định đối tượng và cô lập nó,’ và
‘để xem xét kỹ tính chất kết hợp rõ ràng
của những vật giống như tính tương tục,’ cũng cần phải được hiểu như sau:
Người (hành thiền) này quán thân chỉ như thân. Tại sao? Người ấy thấy các
kalāpas và phân tích chúng để thấy sắc chân đế. Người ấy quán nó chỉ là thân,
chứ không là gì khác. Điều này có nghĩa là gì? Trong cái thân vô thường, khổ,
vô ngã và bất tịnh rõ ràng này, người ấy không thấy thường, lạc, ngã hay tịnh
(đẹp). Quán thân chính là quán sự tập hợp của những tính chất vô thường, khổ,
vô ngã và bất tịnh này. Người ấy thấy rằng sắc chân đế diệt ngay khi vừa sanh
lên, nên nó là vô thường; nó luôn luôn bị bức bách bởi sự sanh và diệt , nên nó
là khổ; không có một cái ngã thường hằng trong đó, nên nó là vô ngã; và nó luôn
luôn được đi kèm với màu sắc xấu xí, mùi hôi hám, nên nó là bất tịnh. Vì thế
người ấy luôn luôn thấy sắc chân đế như vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh.
Không có việc quán thân liên hệ
đến một cái ngã hay lên hệ đến bất cứ cái gì thuộc về tự ngã. Do quán sự tập hợp
của những vật giống như tóc, nên gọi là tính cách quán thân (chỉ) như thân.
Ý nghĩa câu trên nên hiểu như
sau: ‘Quán thân (chỉ) là thân’ là thấy theo tuần tự thân như một nhóm sắc vô
thường, khổ, và …, như những gì đã được dạy trong đoạn giải thích của Vô Ngại
Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) bắt đầu với: ‘Trong
thân này, vị ấy quán theo tính chất vô thường, chứ không phải thường.’ Tất
cả có bảy cách quán:
1. Vị
ấy quán (để thấy rằng) thân là vô thường, không phải thường. Đây là vô thường tuỳ quán (aniccānupassanā).
2. Vị
ấy quán (để thấy rằng) thân phải chịu khổ, không phải lạc. Đây là khổ tuỳ quán (dukkhānupassanā).
3. Vị
ấy quán (để thấy rằng) thân là vô ngã, không phải tự ngã. Đây là vô ngã tuỳ quán.
4. Nếu
vị ấy quán theo các cách vô thường, khổ và vô ngã như vậy, thời sự quay đi sẽ khởi lên trong tâm vị ấy bằng
cách không thích thú với nó (thân). Đây gọi là yểm ly tuỳ quán (nibbidānupassanā). Cách quán này và ba cách quán
sau không phải là những cách quán riêng biệt, mà chỉ là kết quả của những cách
quán vô thường, khổ và vô ngã mà thôi.
5. Vị
ấy quán thân không phải để chấp thủ với tham ái. Mà vị ấy quán nó như vô thường,
khổ và vô ngã nhiều lần để loại trừ tham ái. Đây gọi là ly tham tuỳ quán (virāganupassanā).
6. Vị
ấy quán thân là vô thường, khổ và vô ngã nhiều lần với ý nghĩ dẫn đến sự diệt chứ không dẫn đến sự sanh.
Đây gọi là diệt tuỳ quán
(nirodhānupassanā).
7. Vị
ấy quán thân là vô thường, khổ và vô ngã không phải để nắm giữ nó, mà để từ bỏ
nó. Đây gọi là xả ly tuỳ quán (paṭinissaggānupassanā).
Khi vị ấy thực hành theo bảy
cách quán trên, minh sát trí của vị ấy sẽ đoạn trừ các phiền não một cách tạm
thời. Như thế nào? Khi vị ấy thấy tính chất vô thường, thì thường tưởng (tưởng
về sự thường hằng) sẽ biến mất. Vì (ngã) mạn sanh do thường tưởng, nên khi vị ấy
thấy tính chất vô thường, mạn cũng biến mất. Khi vị ấy quán sắc thân và
danh là khổ, lạc tưởng (tưởng về lạc) và
tham ái sẽ biến mất. Khi vị ấy quán danh và sắc là vô ngã, minh sát trí của vị ấy
sẽ đoạn trừ ngã tưởng và ngã tà kiến. Theo cách này quán vô thường, khổ và vô
ngã đoạn trừ được các phiền não một cách tạm thời. Khi minh sát trí của vị ấy
thành thục vị ấy sẽ thấy Niết-bàn (Nibbāna). Trong Niết-bàn không có danh, sắc,
không có vô thường, khổ và ngã, mà chỉ có chân an lạc trong Niết-bàn.
Đức Phật dạy rằng ‘vị Tỳ kheo sống quán thân (chỉ) là thân với
nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm.’ Nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm rất
là quan trọng đối với những người hành thiền. Nhiệt tâm, vốn là tinh tấn, có thể
thiêu đốt những phiền não của tam giới.
Tỉnh giác là phân biệt một
cách đúng đắn, toàn diện, và bình đẳng. ‘Toàn diện’ có nghĩa là biết trên mọi
phương diện.
Nếu một vị Tỳ kheo quán hay
phân biệt tóc, lông, móng, … sự phân biệt này là sự phân biệt đúng. Nếu vị ấy
phân biệt sắc chân đế, sự phân biệt này cũng là sự phân biệt đúng. Nhưng phân
biệt một phần thì không đủ. Vị ấy phải phân biệt một cách đầy đủ, chẳng hạn, từ
tóc cho đến nước tiểu cả bên trong lẫn bên ngoài. Tại sao? Con người ta có sự
luyến ái không chỉ đối với ba mươi hai thân phần bên trong mà còn cả ba mươi
hai thân phần bên ngoài nữa. Chính vì điều này mà họ mới lấy vợ lấy chồng, họ
có sự luyến ái lẫn nhau rất nhiều vậy. Vì thế mà phải thực hành để phân biệt
không chỉ bên trong mà cả bên ngoài nữa. Nếu quý vị thực hành như vậy là quý vị
đang phân biệt một cách toàn diện, tức thực hành trên mọi cách, mọi phương diện.
Chúng ta cũng còn phải phân biệt tứ đại trong tóc, v.v… một cách hệ thống để thấy
các kalāpas. Rồi chúng ta còn phải phân tích các kalāpas ấy để thấy tất cả các
sắc chân đế ở mỗi phần trong ba mươi hai thân phần. Nếu quý vị thực hành như vậy
là quý vị cũng đang phân biệt một cách toàn diện, trên mọi phương diện.
‘Bình đẳng’ có nghĩa là tiến
hành qua những chứng đắc càng lúc càng cao hơn. Chúng ta sẽ phân biệt một cách
bình đẳng như thế nào? Trước đây tôi đã giải thích rằng phân biệt chỉ một mình
sắc thì không đủ để chứng đắc Niết-bàn; quý vị cũng cần phải phân biệt danh.
Nhưng chỉ phân biệt một mình danh và sắc thôi cũng không đủ để chứng đắc Niết-bàn;
quý vị cần phải phân biệt các nhân của chúng nữa, có nghĩa là quý vị phải phân
biệt duyên khởi một cách hệ thống để thấy mối tương quan nhân quả giữa các nhân
và quả. Nhưng cho dù quý vị thực hành được như vậy thì vẫn chưa đủ để cho quý vị
chứng đắc Niết-bàn; quý vị cũng còn phải phân biệt danh sắc chân đế và các nhân
của chúng là vô thường, khổ và vô ngã qua những tuệ minh sát (vipassana) càng
lúc càng cao hơn để chứng đắc Niết-bàn.
‘Quán với chánh niệm’ nghĩa là
với đầy đủ sự ghi nhớ bắt lấy thân kể như đối tượng thiền. Người hành thiền
quán với (trí tuệ) tỉnh giác sau khi đã bắt lấy đối tượng bằng chánh niệm. Điểm
này rất quan trọng. Tôi sẽ giải thích nó với một ví dụ. Giả sử có một viên ngọc
ở đây. Quý vị lấy một tay cầm nó lên và nhìn vào nó. Tương tự, người hành thiền,
với chánh niệm bắt lấy đối tượng, và nhìn nó với trí tuệ tỉnh giác. Sau khi đã
bắt lấy sắc với chánh niệm, người hành thiền quán nó với trí tuệ tỉnh giác như
vầy: ‘đây là sắc,’ ‘đây là (đặc tính)
cứng,’ ‘đây là địa đại,’ ‘đây là phong đại,’ ‘đây là hoả đại,’ …
Bây giờ, nếu quý vị đang hành
niệm hơi thở trước tiên quý vị phải bắt lấy hơi thở, đối tượng của niệm hơi thở,
với chánh niệm. Rồi quý vị phải thấy nó một cách rõ ràng với trí tuệ tỉnh giác.
Chánh niệm ghi nhớ hay lưu tâm tới hơi thở. Trí tuệ tỉnh giác biết rõ hơi thở.
Quý vị phải thực hành với sức tinh tấn mãnh liệt nhưng quân bình. Với một cái
tâm lười biếng quý vị không thể thấy đối tượng một cách rõ ràng được.
Theo cách tương tự, nếu quý vị
đang hành thiền tứ đại, quý vị phải nhớ mười hai đặc tính theo tuần tự: cứng,
thô, nặng, mềm, trơn mịn, nhẹ, lưu chảy, kết dính, nóng, lạnh, hỗ trợ (nâng đỡ),
và đẩy. Nhớ mười hai đặc tính này là chánh niệm, biết chúng là trí tuệ tỉnh
giác, và cố gắng hết sức để biết chúng là nhiệt tâm tinh tấn.
Khi quý vị đã có thể phân biệt
được chúng một cách nhanh chóng từ đầu đến chân tới lui nhiều lần, thời quý vị
phải nhìn xuống toàn thân mình từ trên đỉnh đầu (xuống) như một tổng thể. Trong
khi nhìn xuống như vậy, nếu quý vị có thể thấy được mười hai đặc tính gần như
cùng một lúc, quý vị nên chuyển sang phân biệt chỉ bốn nhóm: cứng, thô, nặng, mềm,
trơn mịn, nhẹ là địa đại; lưu chảy, kết dính là thuỷ đại; nóng và lạnh là hoả đại;
hỗ trợ và đẩy là phong đại. Nếu quý vị nhớ đi nhớ lại bốn đại này một cách hệ
thống, cái nhớ này là chánh niệm. Nếu quý vị thấy chúng một cách rõ ràng, cái
thấy rõ ấy là trí tuệ tỉnh giác. Cố gắng để biết và tập trung trên đối tượng
thiền là tinh tấn. Vì thế ba yếu tố tinh tấn, chánh niệm, và tỉnh giác này được
xem là rất quan trọng đối với người hành thiền dù họ hành bất cứ đề mục thiền
nào.
Thực vậy, không thể gọi là
quán nếu không có niệm. Vì không có niệm người ta không thể nhớ bất cứ đối tượng
nào. Nếu không nhớ, thời họ có thể quán ‘cái
này là vô thường’, ‘cái này là khổ’, và ‘cái này là vô ngã’ như thế nào? Do
đó Đức Phật mới nói: ‘Này các Tỳ kheo, niệm
là hữu ích trong mọi trường hợp, ta tuyên bố như vậy.’
Phụ chú giải giải thích lý do
tại sao niệm lại được xem là hữu ích trong mọi trường hợp như sau: nó (niệm)
đáng được mong muốn ở mọi nơi, trong trạng thái trở thành, trong mọi trạng thái
tâm trì trệ và không quân bình. Hay ‘hữu ích trong mọi trường hợp’ có nghĩa là
nhờ sự giúp đỡ của nó (niệm) sáu giác chi khác có thể được phát triển. Ở đây,
quán xảy ra nhờ trí tuệ tỉnh giác (yếu tố) vốn được trợ giúp bởi chánh niệm.
Tôi muốn giải thích ngắn gọn bảy
chi phần giác ngộ hay Thất-giác-chi (bojjhaṅga) cho quý vị hiểu: (1) niệm giác
chi (sati-sambojjhaṅga), (2) trạch pháp giác chi (dhammavicaya-sambojjhaṅga),
(3) tinh tấn giác chi (viriya-sambojjhaṅga), (4) hỷ giác chi (pīti-sambojjhaṅga),
(5) tịnh giác chi (passaddhhi-sambojjhaṅga), (6) định giác chi
(samādhi-sambojjhaṅga), và (7) xả giác chi (upekkhā-sambojjhaṅga). Ngoài niệm,
sáu giác chi khác có thể được chia thành hai nhóm. Trạch pháp giác chi, tinh tấn
giác chi và hỷ giác chi là một nhóm. Tịnh giác chi, định giác chi và xả giác
chi là một nhóm khác. Niệm giác chi nằm ở giữa để quân bình hai nhóm này. Có
hai loại giác chi, hiệp thế và siêu thế. Các giác chi siêu thế kết hợp với đạo
tuệ, lấy Niết-bàn (Nibbāna) làm đối tượng. Các giác chi hiệp thế lấy thân, thọ,
tâm và pháp làm đối tượng.
Ở đây, tôi muốn giải thích một
chút về các giác chi hiệp thế với ví dụ về niệm hơi thở. Khi quý vị đang hành
niệm hơi thở, bảy giác chi có mặt. Với trạch pháp[2] giác chi,
hơi thở là pháp. Nếu quý vị thẩm sát quá nhiều, rất có thể nó sẽ gây ra vấn đề,
trong khi chỉ hay biết hơi thở là đủ cho quý vị. Tôi thường dạy là quý vị phải
làm sao biết được toàn hơi thở, bất kể nó là dài hay ngắn. Nhưng một số hành giả
lại thẩm sát quá nhiều: tức là họ nghiên cứu tỷ mỉ xem hơi thở là dài hay ngắn?
Dài bao nhiêu? Ngắn bao nhiêu? Thẩm sát như vậy là quá mức! Nếu quý vị thẩm sát
quá nhiều như vậy, trách pháp giác chi và tinh tấn giác chi sẽ trở nên thái
quá. Do quý vị thích thẩm sát, nên đôi khi hỷ giác chi cũng sẽ bị thái quá. Nếu
ba giác chi này thái quá, định của quý vị sẽ giảm. Vào lúc đó, niệm rất là quan
trọng để quân bình lại các giác chi khác. Quý vị quân bình chúng như thế nào?
Quý vị phải nhấn mạnh và khơi dậy ba giác chi yếu hơn, đó là tịnh giác chi, định
giác chi và xả giác chi. Như thế nào? Quý vị phải tập trung duy nhất vào hơi thở.
Nếu quý vị tập trung trên hơi thở với chánh niệm và tỉnh giác mạnh và đầy năng
lực, dần dần định sẽ được cải thiện. Khi định cải thiện, tịnh và xả cũng sẽ cải
thiện. Khi ấy các chi phần giác ngộ của tịnh, định và xả sẽ trở nên quân bình với
các chi phần giác ngộ trạch pháp, tinh tấn và hỷ. Khi các giác chi này quân
bình, định sẽ cải thiện thêm.
Hiện nay hầu hết quý vị đang
tu tập định, và một số đang hành minh sát (vipassanā). Trường hợp quý vị đang tu
tập định và nếu định giác chi hơi thái quá, điều đó không sao. Nhưng nếu nó quá
thái quá thì không tốt. Còn trường hợp quý vị đang hành minh sát (vipassanā),
và nếu trạch pháp giác chi hơi thái quá, điều đó không sao. Lý do vì sao? Bởi
vì trạch pháp rất quan trọng trong việc hành minh sát. Quý vị phải thẩm sát
danh, sắc, mối tương quan nhân quả, và các đặc tính vô thường, khổ và vô ngã của
chúng.
Trong cả hai, thiền chỉ và
minh sát (vipassanā), yếu tố chánh niệm rất quan trọng, bởi vì việc quán xảy ra
nhờ trí tuệ tỉnh giác, yếu tố vốn được trợ giúp bởi chánh niệm.
Chú giải tiếp tục: Chỉ ra cho
thấy các pháp ảnh hưởng đến tiến bộ trong thiền của hành giả là mục đích của
các từ, ‘với nhiệt tâm, tỉnh giác và
chánh niệm.’
Đối với trạng thái tâm lười
nhác, đó là chướng ngại thuộc về sự mập mờ, không rõ ràng của tâm.
Trạng thái tâm không hiểu rõ đối
tượng, phán đoán sai trong việc chọn phương cách đúng và tránh phương cách sai.
Chẳng hạn, trong lúc đang hành thiền, nếu quý vị không nắm bắt hơi thở một cách
rõ ràng, quý vị thực sự không đang hành niệm hơi thở, không đi theo chánh đạo.
Trạng thái tâm không chú ý —
trạng thái tâm hay quên — không có khả năng chọn phương cách đúng và loại bỏ
phương cách sai. Chẳng hạn, nếu quý vị không thích thú trong việc tập trung
trên hơi thở, quý vị sẽ quên nó, bởi vì quý vị chỉ thích chú ý đến những đối tượng
khác, như những sự việc đã xảy ra trong quá khứ, những dự định trong tương lai,
cảm giác trên thân, và những âm thanh bên ngoài. Chánh niệm của quý vị lúc đó sẽ
rất yếu. Tinh tấn của quý vị để biết rõ hơi thở cũng yếu. Sự hiểu biết về hơi
thở cũng yếu. Tâm quý vị lúc đó không có khả năng chọn lựa những phương cách
đúng và loại trừ những phương cách sai. Vì thế tinh tấn, tỉnh giác và chánh niệm
mạnh mẽ được xem là rất quan trọng trong lúc quý vị đang hành thiền.
Khi một người hành thiền không
nhiệt tâm, không tỉnh giác và không chánh niệm, họ sẽ không thể thành tựu được
mục đích của mình. Vì vậy, hãy cố gắng để là một người hành thiền có nhiệt tâm,
tỉnh giác và chánh niệm.
Sau khi chỉ ra các pháp tạo
thành những điều kiện căn bản liên quan đến việc quán thân, liền theo đó các
pháp tạo thành những điều kiện phải được đoạn trừ cũng được chỉ ra trong câu ‘như vậy vị ấy vượt qua tham và ưu đối với
thế gian (ở đời).’ Nếu quý vị không thể đoạn trừ hai phiền não (tham, ưu)
này, quý vị sẽ không cách nào đạt đến sự tập trung cao hơn được.
Tóm lại, trong khi quý vị đang
quán thân chỉ là thân, quý vị phải phát triển ba yếu tố, nhiệt tâm tinh tấn, tỉnh
giác và chánh niệm, để vượt qua hai pháp, tham và ưu.
‘Vượt qua’ muốn nói tới việc
giới luật đánh văng một ác pháp bằng chính thiện pháp đối nghịch của nó. Hay muốn
nói tới việc vượt qua ác pháp theo tuần tự nhờ giới luật hay vượt qua tham dục
nhờ đè nén trong an chỉ (định).
‘Đối với thế gian’: thân là thế
gian trong nghĩa của một vật vỡ vụn.
Vì tham và ưu cũng được đoạn
trừ trong thọ, tâm và pháp, nên Vibhaṅga (Bộ Phân Tích) nói: ‘Chính năm thủ uẩn tạo thành thế gian.’
Tham đại diện cho tham dục, và
ưu cho sân hận. Vì tham dục và sân hận là những triền cái chính, do đó bằng việc
vượt qua tham và ưu, sự đoạn trừ các triền cái khác đã được hàm ý.
Như vậy theo sự chỉ dẫn của Đức
Phật, trong khi quý vị đang hành thiền, quý vị phải loại trừ tất cả các triền
cái. Có sáu triền cái (lục cái):
1.
Tham dục,
2.
Sân hận,
3.
Hôn trầm và thuỵ miên,
4.
Trạo cử và hối quá,
5.
Hoài nghi,
6.
Vô minh.
Sở dĩ gọi là các triền cái bởi
vì chúng cản trở con đường tái sanh thiên giới hoặc tái sanh trong một cõi an
vui cũng như việc đắc thiền hoặc Niết-bàn. Theo Vi-diệu Pháp (Abhidhamma), nếu
tốc hành tâm cận tử (maraṇāsanna javana) của một người là một tốc hành bất thiện,
sau khi chết người ấy sẽ đi đến một trong bốn cõi ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, hoặc A-tu-la). Như vậy các triền cái cản trở con đường tái sanh thiên giới
hay tái sanh trong một cõi an vui. Nếu quý vị có bất kỳ một triền cái nào trong
các triền cái kể trên, quý vị không thể đắc thiền hoặc chứng ngộ Niết-bàn. Chẳng
hạn trong khi quý vị đang hành thiền, nếu quý vị thèm một món ăn ngon đã bị ám ảnh
nào đó, sức tập trung của quý vị sẽ bắt đầu giảm.
Các triền cái là những tâm sở
ngăn cản những thiện pháp chưa sanh không cho khởi sanh và không để cho những
thiện pháp đã sanh được kéo dài. Triền cái đầu, tham dục, là chướng ngại chính
đối với việc đắc thiền (jhāna), và triền cái thứ sáu, vô minh, là chướng ngại
chính đối với sự khởi sanh của trí tuệ.
Cả thảy có tám tâm sở
(cetasika) được kể trong sáu triền cái. Tuy nhiên, có hai trường hợp một cặp
tâm sở chỉ được tính như một triền cái mà thôi. Các bản chú giải Abhidhamma
(Vi-diệu-Pháp) giải thích rằng hôn trầm và thuỵ miên, cũng như trạo cử và hối
quá, kết hợp với nhau thành những từ kép bởi vì sự giống nhau trong những nhiệm
vụ, điều kiện và cách đối trị của chúng. Hôn trầm và thuỵ miên có cùng nhiệm vụ
là gây ra sự uể oải của tâm. Chúng được tạo điều kiện bởi tình trạng lười biếng
và buồn ngủ, và đề khởi tinh tấn là cách đối trị. Trạo cử và hối quá có cùng
nhiệm vụ là gây ra sự lo lắng, bồn chồn. Chúng được tạo điều kiện bởi những ý
nghĩ lung tung, và phát triển sự tập trung (tu tập định) là cách đối trị của
chúng.
Đại Niệm Xứ Tường Giải
(Mahāsatipaṭṭhāna Sutta)
Tôn Giả Āciṇṇa, Dhammācariya –
Pháp Sư
Aggamahākammaṭṭhānācariya – Đại
Trưởng Lão Thiền Sư
Trưởng Ban Thiền Sư và Cố Vấn
Thiền
[1] Thông thường trong các Bài Kinh Đại Niệm xứ
khác câu này được dịch là: ‘Quán thân trên thân …quán thọ trên thọ…quán tâm
trên tâm… và quán các pháp trên các pháp. Nhưng ở đây ngài Pa Auk dịch, ‘quán
thân là thân (contemplating the body as the body), thọ là thọ, tâm là tâm, và
pháp là pháp’ với những giải thích đặc biệt, mà quý vị sẽ thấy ở sau. ND
[2] Trạch pháp (dhammavicaya)
có nghĩa là thẩm sát (investigate)
hay nghiên cứu các hiện tượng (pháp)
khi chúng xuất hiện.