Pháp hành thiền không
phải là một pháp môn mới có từ hôm nay hay hôm qua. Từ lâu lắm rồi đã có người
hành thiền bằng nhiều cách khác nhau. Các vị Du già, các vị Thánh và các bậc
giác ngộ trong các thời đại đều phải trải qua con đường hành thiền, và các ngài
đã chứng đắc và thành tựu đạo quả nhờ tu tập thiền định. Chưa hề có và sẽ không
bao giờ có sự phát triển và thanh tịnh tâm trí mà không qua thiền định. Chính
nhờ thiền định mà ngài Thái tử Sĩ Ðạt Ta (Gotama), tức Đức Phật, đã đạt được đạo quả vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay
cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất
cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
Thiền định không hạn hẹp ở chủng tộc, tôn
giáo, biên giới, không gian và thời gian. Thật vậy, gần 26 thế kỷ về trước, sau
khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định
thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình. Ngài đã ngồi kiết già
suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề và cuối cùng đạt được thiền định cao nhất mà thời
bấy giờ người ta gọi là giác ngộ và giải thoát. Ngài đã tuần tự chứng sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, tứ thiền...
Như vậy Thiền bắt nguồn ngay từ thời Đức Phật
và Thiền Phật Giáo thành hình từ cốt lõi của giáo lý nhà Phật. Thiền tại những
xứ Đông Á khác được thành hình và ngày nay Thiền trở thành phổ cập chẳng những
trong tu tập Phật giáo, mà những xứ theo Cơ Đốc giáo và Hồi giáo người ta cũng
cố gắng tu tập thiền quán trong những sinh hoạt hằng ngày của họ nhằm cải thiện
cuộc sống của mình. Tuy nhiên, thiền Phật giáo không dừng lại ở chỗ chỉ nhằm cải
thiện đời sống, mà còn giúp con người đạt tới giác ngộ qua việc thấy được thực
tánh của chân như mà người ta tin rằng không thể nào truyền đạt được qua tư tưởng,
mà chỉ tìm được sự chứng ngộ thật sự qua việc tập luyện.
Ngày nay Thiền được phổ
biến khắp thế giới Tây Phương và được nhiều người biết đến đến nỗi hầu như người
nào cũng biết về Thiền. Thiền đưa tâm ra khỏi tâm cho đến khi một tia tuệ giác
trực tiếp xuất hiện chỉ trong một khoảnh khắc nào đó, qua những giây tuyệt vời
đó chúng ta hiểu thật sự bản chất của nó là.
Thiền trong Phật giáo
không phải là trạng thái thôi miên, hay mê man không ý thức. Thiền là một trạng
thái tâm thanh sạch, nơi mà mọi dục vọng và thôi thúc đều được điều phục để tâm
trở nên tập trung và thể nhập vào trạng thái minh mẫn và tỉnh thức. Hơn nữa,
pháp hành thiền trong Phật giáo không nhằm được hội nhập với bất cứ đấng tối
thượng nào, cũng không nhằm đạt được chứng nghiệm huyền bí, cũng không là thôi
miên. Thiền nhằm giúp tâm đạt được trạng thái vắng lặng và minh sát tuệ để tiến
đến mục tiêu duy nhất là đạt được sự giải thoát không lay chuyển, đây là sự an
toàn tối thượng, vượt ra ngoài mọi trói buộc, bằng cách tận diệt hoàn toàn những
bợn nhơ tinh thần. Và điều quan trọng trên hết là hành thiền theo Phật giáo
không phải là tự nguyện lưu đày ra khỏi đời sống cũng không phải là thực hành
cho kiếp sau. Thiền tập phải được áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, và kết quả của
công phu nầy phải được hưởng tại đây, ngay trong kiếp nầy.
Hành thiền không phải
là tự mình tách rời hay xa lìa công việc mà thường ngày mình vẫn làm, mà thiền
là một phần của đời sống, là cái dính liền với cuộc sống nầy. Trong Thiền,
chúng ta sống thiền bất cứ khi nào chúng ta hoàn toàn sống với hiện tại mà
không chút sợ hãi, hy vọng hay những lo ra tầm thường. Với sự tỉnh thức chúng
ta có thể tìm thấy thiền trong những sinh hoạt hằng ngày. Thiền không thể tìm
được bằng cách khám phá chân lý tuyệt đối bị che dấu từ ngoại cảnh, mà chỉ tìm
được bằng cách chấp nhận một thái độ đến với cuộc sống giới hạnh.
Người ta tìm
cầu giác ngộ bằng cách nỗ lực, tuy nhiên, đa số chúng ta quên rằng để đạt đến
giác ngộ chúng ta phải buông bỏ. Điều này cực kỳ khó khăn cho tất cả chúng ta
vì trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường cố gắng thành đạt sự việc. Người tu
Thiền không lệ thuộc vào ngôn ngữ văn tự. Đó chính là nhìn thẳng vào tâm để thấy
được sự thật bên trong của tất cả chúng ta. Trong khi những tông phái khác nhấn
mạnh đến niềm tin nơi tha lực để đạt đến giác ngộ, Thiền lại dạy thực tánh bên
trong chúng ta chỉ có thể đạt được bằng tự lực mà thôi. Thiền dạy cho chúng ta
biết cách làm sao để sống với hiện tại quí báu và quên đi ngày hôm qua và ngày
mai, vì hôm qua đã qua rồi và ngày mai thì chưa tới.
Trong Thiền, chúng ta nên
hằng giác ngộ chứ không có cái gì đặc biệt cả. Mọi việc đều bình thường như thường
lệ, nhưng làm việc trong tỉnh thức. Bắt đầu một ngày của bạn, đánh răng, rửa mặt,
đi tiêu tiểu, tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống, làm việc... Khi nào mệt thì nằm xuống
nghỉ, khi nào đói thì tìm cái gì đó mà ăn, khi không muốn nói chuyện thì không
nói chuyện, khi muốn nói thì nói. Hãy để những hoàn cảnh tự đến rồi tự đi, chứ
đừng cố thay đổi, vì bạn chẳng thể nào thay đổi được hoàn cảnh đâu! Thiền dạy
chúng ta đoạn trừ mọi suy nghĩ phân biệt và khiến cho chúng ta hiểu rằng chân
lý của vũ trụ là căn bản thật tánh của chính chúng ta. Mọi người chúng ta nên
thiền định thâm sâu về vấn đề nầy, vì nó là cái mà chúng ta gọi là ‘Ngã’. Khi
hiểu nó là gì, chúng ta sẽ tự động quay về hòa cùng thiên nhiên vũ trụ trong cảnh
giới là một, và chúng ta sẽ thấy thiên nhiên chính là chúng ta và chúng ta cũng
chính là thiên nhiên, và cảnh giới thiên nhiên ấy chính là cảnh Phật, người
đang thuyết pháp cho chúng ta ở mọi nơi mọi lúc. Hy vọng rằng tất cả chúng ta đều
có thể nghe được thiên nhiên đang nói gì với chúng ta, để ai cũng có thể tìm về
cảnh giới an lạc mà chúng ta đã một lần xa rời.
Thế giới ngày nay bị
tàn hại bởi chiến tranh, tai ương... chúng ta cần hiểu và tôn trọng văn minh của
người khác sâu sắc hơn. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng sự tỉnh thức
qua Thiền. Bài viết này này chỉ nhằm mục đích trình bày những phương cách đơn
giản nhất và dễ thực hành nhất của Thiền mà bất cứ ai cũng có thể thực hành được.
Bài viết này này chỉ nhằm giúp cho chúng ta thấy được những ý tưởng cốt lõi của
Thiền mà bất cứ người Phật tử nào cũng đều muốn tiến đến trong đời sống hằng
ngày. Nếu chúng ta thực sự muốn tu tập theo con đường mà Đức Phật đã tu tập gần
26 thế kỷ về trước thì hy vọng rằng bài viết này này có thể giúp chúng ta nghe
được những tiếng thì thầm của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật rằng từ bỏ cuộc sống
thế tục có nghĩa là từ bỏ những hành động vô tâm và cẩu thả có thể đưa đến trục
trặc trong cuộc sống. Từ bỏ cuộc sống thế tục là từ bỏ sự loạn động và sự căng
thẳng làm tổn hại đến hệ thần kinh của chúng ta và có thể dẫn tới trăm ngàn thứ
bệnh hoạn cho thân tâm chúng ta. Từ bỏ cuộc sống thế tục không có nghĩa là từ bỏ
cuộc sống của chính mình, mà nó có nghĩa là chúng ta làm một cuộc hành trình hướng
về nội tâm trong cuộc sống thế tục này.
Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thấy
được chính mình như là mình, và từ đó mới có thể biết cách làm sao vượt qua những
khuyết điểm và giới hạn để được mạnh mẽ hơn trong cuộc sống. Rất nhiều người
trong chúng ta đã và đang đi tìm phương cách. Chúng ta nghĩ rằng mọi vấn đề đều
có thể được giải quyết từ bên ngoài, chúng ta đã lầm... Hầu hết mọi vấn đề đều
phát nguồn từ bên trong mà ra và chỉ có thể giải quyết được khi chúng ta cố gắng
đi trở vào bên trong để thấy chính mình. Đối với người Phật tử tu thiền, nếu
hành thiền có nghĩa là kỷ luật tinh thần hoặc là phương pháp trau dồi tâm trí,
thì khỏi phải nói, tất cả mọi người không phân biệt giới tánh, chủng tộc, hay bất
luận sự phân chia nào, đều nên hành thiền. Xã hội hiện đại đang lâm nguy trước
thảm họa tự trầm mình trong những tình trạng vọng động và quyến rũ, chỉ có thể
kềm chế được nếu chúng ta chịu khó rèn luyện tâm tánh của chính mình.
Có khá nhiều phương
cách như vậy được đưa ra cho người tu tập, và người ấy có thể lựa chọn tùy theo
năng lực tinh thần và khuynh hướng của mình. Có quá nhiều khả năng lựa chọn đến
nỗi không sao có thể kể hết ra đây. Trong số nầy có thể kể đến những cách luyện
hơi thở đơn giản theo kiểu Du Già, sự quán sát 32 phần trong cơ thể, sự suy gẫm
về xác chết qua các giai đoạn thối rữa khác nhau, sự tỉnh thức quán sát nội tâm
để nhận biết các tiến trình tâm linh đang diễn ra, cho dù đó là thọ cảm, tư tưởng,
những trở ngại đối với sự chú tâm, hay những yếu tố giúp đạt đến giác ngộ. Tiếp
đến còn có việc bồi đắp những tình cảm xã hội
như tình thân hữu và lòng từ bi, niệm tưởng đến sự cao quí của Tam Bảo,
sự quán tưởng về cái chết và niềm khao khát đạt đến Niết Bàn. Một đề tài rất được
ưa chuộng của việc thiền quán là mười hai mắc xích với tương quan sinh khởi lẫn
nhau, cho thấy vô minh dẫn đến các yếu tố khác của sự tồn tại trong thế giới trần
tục được kết thúc bằng già và chết như thế nào, và ngược lại sự trừ diệt vô
minh sẽ dẫn đến các yếu tố nầy diệt đi như thế nào. Nhưng phương pháp thiền
quán khác lại cố tạo ấn tượng trong tâm trí của chúng ta về bản chất vô thường
của vạn hữu, làm bộc lộ hoàn toàn sự đau khổ, chứng minh sự vô nghĩa của khái
niệm sai lầm về tự ngã, nuôi dưỡng sự quán chiếu trong nội tâm về tánh không,
và phát lộ những nét đặc thù của con đường dẫn đến giải thoát. Thật ra, dường
như có vô số những phương thức thiền quán đã được xác định là thuộc về thời kỳ
đầu tiên của Phật giáo, mặc dù điều rõ ràng là phải sang thời kỳ thứ hai mới có
sự sắp xếp hệ thống nào đó được áp dụng cho những phương thức nầy.
Có khá nhiều phương
cách như vậy được đưa ra cho người tu tập, và người ấy có thể lựa chọn tùy theo
năng lực tinh thần và khuynh hướng của mình. Có quá nhiều khả năng lựa chọn đến
nỗi không sao có thể kể hết ra đây. Trong số nầy có thể kể đến những cách luyện
hơi thở đơn giản theo kiểu Du Già, sự quán sát 32 phần trong cơ thể, sự suy gẫm
về xác chết qua các giai đoạn thối rữa khác nhau, sự tỉnh thức quán sát nội tâm
để nhận biết các tiến trình tâm linh đang diễn ra, cho dù đó là thọ cảm, tư tưởng,
những trở ngại đối với sự chú tâm, hay những yếu tố giúp đạt đến giác ngộ. Tiếp
đến còn có việc bồi đắp những tình cảm xã hội
như tình thân hữu và lòng từ bi, niệm tưởng đến sự cao quí của Tam Bảo,
sự quán tưởng về cái chết và niềm khao khát đạt đến Niết Bàn. Một đề tài rất được
ưa chuộng của việc thiền quán là mười hai mắc xích với tương quan sinh khởi lẫn
nhau, cho thấy vô minh dẫn đến các yếu tố khác của sự tồn tại trong thế giới trần
tục được kết thúc bằng già và chết như thế nào, và ngược lại sự trừ diệt vô
minh sẽ dẫn đến các yếu tố nầy diệt đi như thế nào.
Nhưng phương pháp thiền
quán khác lại cố tạo ấn tượng trong tâm trí của chúng ta về bản chất vô thường
của vạn hữu, làm bộc lộ hoàn toàn sự đau khổ, chứng minh sự vô nghĩa của khái
niệm sai lầm về tự ngã, nuôi dưỡng sự quán chiếu trong nội tâm về tánh không,
và phát lộ những nét đặc thù của con đường dẫn đến giải thoát. Thật ra, dường
như có vô số những phương thức thiền quán đã được xác định là thuộc về thời kỳ
đầu tiên của Phật giáo, mặc dù điều rõ ràng là phải sang thời kỳ thứ hai mới có
sự sắp xếp hệ thống nào đó được áp dụng cho những phương thức nầy.
Nói tóm lại, dù có tài ba thế mấy,
không ai có thể thực sự diễn tả được cốt lõi của Thiền. Bài viết này chỉ nhằm
giúp cho độc giả hiểu được những phương thức đơn giản và dễ thực hành nhất cho
bất cứ ai muốn tu tập, nhất là những người tại gia. Hy vọng nó sẽ phơi bày cho
chúng ta cốt lõi của giáo lý nhà Phật về Thiền. Chúng ta nên bắt đầu cuộc hành
trình bằng phương cách đơn giản, tìm một vị thầy với tất cả niềm tin và sự tín
nhiệm; rồi kiên nhẫn phủ phục dưới trí tuệ của vị thầy ấy để tu tập. Rồi từ đó
chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm sống Thiền cho riêng mình trong đời sống
hằng ngày. Dù thích hay không thích, những phút giây hiện tại này là tất cả những
gì mà chúng ta phải làm việc; tuy nhiên, điều không may là đa phần chúng ta thường
hay quên chúng ta đang ở đâu. Hy vọng chúng ta có thể áp dụng thiền quán vào những
sinh hoạt hằng ngày để có thể sống được những giây phút hiện tại của chính mình
để không mất đi sự tiếp xúc với chính mình, từ đó chúng ta có thể chấp nhận
chân lý của giây phút “này” trong cuộc sống của chính chúng ta, từ đó chúng ta
có thể học hỏi để tiếp tục đi tới trong cuộc sống thật của chính chúng ta.