Thursday, September 18, 2014

Niệm Hơi thở



Nếu quý vị có thể tập trung trên toàn hơi thở vi tế, dù cho nó là dài hay ngắn, liên tục trong hơn một giờ và liên tiếp hơn ba ngày như vậy, thông thường thì nimitta sẽ xuất hiện. Với một số hành giả, nimitta xuất hiện trước. Tuy nhiên, với những hành giả khác, ánh sáng sẽ xuất hiện trước. Quý vị phải phân biệt được gữa ánh sáng và nimitta. Chúng là hai thứ khác nhau, cũng như mặt trời và ánh sáng mặt trời vậy.
Ánh sáng thì ở khắp mọi nơi, mọi hướng chung quanh thân của quý vị. Ngoại trừ tâm tục sinh (kiết sanh thức), mỗi tâm sanh lên nương vào sắc ý vật (tâm cơ) đều tạo ra nhiều kalāpas (tổng hợp sắc) gọi là các tổng hợp sắc do tâm sanh. Nếu quý vị phân tích các tổng hợp sắc ấy, quý vị sẽ thấy ít nhất tám loại sắc, đó là địa đại, thuỷ đại, hoả đại, phong đại, màu, mùi, vị và dưỡng chất. Nếu tâm đó là một tâm định mạnh mẽ, màu mà nó tạo ra sẽ rất sáng. Thêm nữa, hoả đại của những tổng hợp sắc ấy còn tạo ra nhiều kalāpas mới gọi là các tổng hợp sắc do thời tiết (nhiệt) sanh, không chỉ toả ra bên trong mà còn phát ra cả bên ngoài nữa. Trong mỗi tổng hợp sắc do thời tiết sanh ấy cũng có màu sáng hay ánh sáng. Khi tâm định cực mạnh và đầy năng lực, ánh sáng toả ra rất xa. Khi tâm ấy ít năng lực, ánh sáng chỉ toả ra có vài phân. Màu của các tổng hợp sắc do tâm sanh chỉ có ở bên trong, trong khi màu của các tổng hợp sắc do thời tiết sanh có cả ở bên trong lẫn bên ngoài. Sự tập hợp của những màu sắc óng ánh này là ánh sáng chói sáng xuất hiện chung quanh quý vị.
Dẫu sao quý vị cũng không nên tập trung vào ánh sáng, mà chỉ tập trung vào hơi thở. Vào lúc đó hơi thở thường rất vi tế. Để biết được hơi thở vi tế ấy tinh tấn mãnh liệt, chánh niệm và trạch pháp là những yếu tố cần thiết phải có. Nếu quý vị biết hơi thở rõ ràng với những yếu tố này, định của quý vị sẽ cải thiện. Khi định cải thiện, thường thì tướng hơi thở (ānāpāna nimitta) sẽ xuất hiện, và tướng này chỉ xuất hiện ở lỗ mũi của quý vị mà thôi.
Tướng hơi thở (ānāpāna nimitta) là gì? Khi định của quý vị cải thiện, hơi thở sẽ trở thành một nimitta. Hơi thở cũng do tâm tạo. Nếu quý vị phân biệt tứ đại trong hơi thở của mình, quý vị sẽ thấy nhiều tổng hợp sắc (kalāpas). Nếu quý vị phân tích những tổng hợp sắc này quý vị sẽ thấy có ít nhất chín loại sắc, đó là, địa đại, hoả đại, thuỷ đại, phong đại, màu, mùi, vị, dưỡng chất và âm thanh. Yếu tố màu (có màu) sáng chói. Như tôi đã giải thích ở trước, hoả đại của các tổng hợp sắc đó cũng tạo ra nhiều tổng hợp sắc mới với màu sắc sáng chói. Sự tập hợp của những màu của các tổng hợp sắc này là nimitta.
Khi nimitta lần đầu xuất hiện, nó thường không ổn định. Vào lúc đó quý vị không nên tập trung vào nimitta, mà chỉ tập trung trên hơi thở. Khi sự tập trung của quý vị trên hơi thở trở nên ổn định và đủ sâu, nimitta cũng sẽ ổn định vững chắc. Lúc đầu nimitta có màu xám. Khi định cải thiện nimitta trở thành màu trắng, và rồi trong suốt. Nimitta trong suốt này được gọi là tợ tướng (pāṭibhāga nimitta). Tuỳ thuộc vào định của quý vị mà nimitta có thể thay đổi hình dáng và màu sắc. Đôi khi nó có thể là nimitta dài. Đôi khi nó có thể là tròn. Đôi khi nó có thể màu đỏ. Đôi khi nó có thể màu vàng. Nhưng quý vị không nên chú ý đến màu sắc và hình dáng của nó, nếu không thì nó sẽ tiếp tục thay đổi (màu sắc và hình dáng). Nếu nó cứ thay đổi như vậy, định của quý vị sẽ suy giảm. Quý vị sẽ không đắc được một thiền nào cả. Như vậy quý vị nên tập trung trên hơi thở cho đến khi nimitta hợp nhất với hơi thở và tâm của quý vị tự động dán vào nimitta. Lúc đó quý vị chỉ nên tập trung trên nimitta, chứ không trên hơi thở nữa. Nếu quý vị lúc thì tập trung trên hơi thở và lúc thì tập trung trên nimitta, định của quý vị sẽ dần dần thối giảm.
Nếu quý vị tập trung trên nimitta, nó sẽ trở thành mầu trắng và rồi sáng óng ánh giống như sao mai. Tâm quý vị lúc đó sẽ tự động chìm vào nimitta. Đây là sự an chỉ. Đối với người mới bắt đầu đây là một giai đoạn rất quan trọng.
Chú giải giải thích giai đoạn này với tỷ dụ về một hài nhi chuyển luân vương. Hoàng hậu, người mang thai hài nhi chuyển luân vương, thấy được hoàng nhi nằm trong bào thai với mắt thịt của mình. Vào lúc ấy hoàng hậu thận trọng canh chừng con mình không để cho bất cứ một sự bất hạnh nào xảy ra. Hành giả cũng vậy, phải canh chừng nimitta của mình với sự thận trọng và tôn kính. Tóm lại, quý vị phải thực hành với nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm, bởi vì một cái tâm lười biếng, mơ hồ và hay quên không thể nào đạt được một sự phát triển tinh thần đặc biệt nào. Trong mọi oai nghi quý vị phải có chánh niệm và tập trung trên nimitta. Chẳng hạn, trước khi quý vị bắt đầu đi, quý vị nên đứng tại một góc của con đường kinh hành và tập trung trên hơi thở của mình. Khi nimitta xuất hiện và ổn định vững vàng, quý vị nên tập trung trên đó. Khi sự tập trung của quý vị đã mạnh mẽ và đầy năng lực, quý vị nên đi một cách chậm rãi với tâm chỉ tập trung trên nimitta mà thôi.
Để có thể tập trung được trên nimitta trong mọi oai nghi là nhờ vào sức mạnh của ý chí. Quý vị có loại sức mạnh của ý chí này. Vì thế hãy chịu khó thực hành. Quý vị có thể thành công. Nếu quý vị thực hành một cách liên tục thì chẳng bao lâu tâm quý vị sẽ chìm vào nimitta. Đây là sự an chỉ, cũng gọi là bậc thiền (jhāna). Mặc dù trong vài lần đầu sự an chỉ không kéo dài lâu, song quý vị không nên từ bỏ việc hành thiền. Quý vị phải thực hành đi thực hành lại nhiều lần. Nếu quý vị chịu khó thực hành với chánh niệm và tỉnh giác mãnh liệt quý vị sẽ thành công trong việc duy trì sự tập trung trên nimitta trong một thời gian dài. Ở giai đoạn đầu, trú trong an chỉ phải được chú trọng nhiều hơn. Ngược lại, việc quán xét các thiền chi phải được hạn chế lại. Nếu quý vị quán xét các thiền chi thường xuyên quá, sự tập trung của quý vị sẽ suy giảm. Vì thế hãy cố gắng trú trong an chỉ để kéo dài thêm thời gian.
Sự an chỉ của quý vị phải được sâu và vững chắc. Nếu nó sâu và vững chắc trong hơn một giờ hoặc hai giờ, thì đó là một sự thành tựu tốt. Ở đây tôi khuyên quý vị nên thực hành cho đến khi quý vị có thể trú trong an chỉ định ít nhất ba giờ liên tục. Nếu quý vị có thể an trú trong tợ tướng (patibhaga nimitta) hơn một, hai hoặc ba giờ mỗi thời ngồi thiền trong ba ngày liên tiếp, lúc đó quý vị có thể khởi sự quán xét các thiền chi. Để làm điều này trước tiên quý vị phải trú trong an chỉ sâu lắng trong hơn một giờ. Sau khi xuất thiền, quý vị sẽ quán bên trong trái tim của mình để phân biệt bhavaṅga (tâm hữu phần), tâm vốn nương vào sắc ý vật hay tâm cơ (một chất máu nằm trong trái tim) của quý vị để sanh khởi. Thường thường, lúc ban đầu nhiều hành giả không thể phân biệt được giữa bhavaṅga và nimitta.

Khi họ phân biệt bhavaṅga, họ cũng thấy tợ tướng hơi thở (ānāpāna nimitta) ấy bên trong trái tim. Họ nghĩ rằng đó là bhavaṅga. Kỳ thực đó không phải là bhavaṅga. Bhavaṅga giống như một tấm gương bên trong trái tim. Như Đức Phật đã dạy: ‘Pabhāsala midaṃ bhikkhave cittaṃ.’ – (này các Tỳ kheo tâm hữu phần (bhavaṅga) thực chói sáng). Lời này được đề cập trong chương accharāsaṅghāṭa của Tăng Chi Kinh (Aṅguttara Nikāya). Thực sự Bhavaṅga là một loại tâm, tuy không sáng nhưng nó có thể tạo ra ánh sáng chói lọi. Nói đúng hơn nó có thể tạo ra nhiều tổng hợp sắc (kalāpas) do tâm sanh (mind-produced kalāpas). Và yếu tố lửa hay hoả đại của những tổng hợp sắc ấy còn tạo ra thêm nhiều thế hệ tổng hợp sắc do thời tiết sanh (temperature-produced  kalāpas) nữa. Màu của hai loại tổng hợp sắc ấy rất chói sáng. Như vậy bhavaṅga là một thứ và ánh sáng là một thứ khác.
Quý vị chỉ nên quán xét bhavaṅga trong vài giây thôi, bởi vì nếu quán xét bhavaṅga lâu hơn, như hai hay ba phút chẳng hạn, tim của quý vị có thể bị đau và định của quý vị sẽ suy giảm đi. Vì thế nếu quý vị phân biệt được bhavaṅga trong một vài giây, đó là điều tốt. Nếu làm không được, quý vị nên tập trung trên tợ tướng hơi thở (ānāpāna nimitta) trở lại cho đến khi sự an chỉ của quý vị sâu lắng và nimitta sáng chói. Lúc đó quý vị lại cố gắng để phân biệt bhavaṅga. Nếu quý vị cứ thực hành đi thực hành lại theo cách này nhiều lần, quý vị có thể hiểu được bhavaṅga. Nếu quý vị không thể phân biệt được bhavaṅga, quý vị nên tập trung vào tợ tướng hơi thở (ānāpāna nimitta) trở lại cho đến khi sự an chỉ của quý vị sâu lắng và nimitta chói sáng. Lúc đó, khi quý vị phân biệt bhavaṅga quý vị sẽ thấy rằng nimitta xuất hiện bên trong bhavaṅga, cũng giống như khi quý vị nhìn vào một tấm gương quý vị sẽ thấy mặt mình ở bên trong tấm gương vậy.
Lúc này quý vị có thể phân biệt năm thiền chi, đó là, tầm (vitakka), tứ (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), và nhất tâm (ekaggata).
Tầm là sự dán áp của tâm vào tợ tướng hơi thở (ānāpāna nimitta). Tứ (vicāra) là duy trì tâm trên ānāpāna nimitta; Hỷ là sự thích thú đối với ānāpāna nimitta; lạc là cảm giác dễ chịu khi kinh nghiệm ānāpāna nimitta; và nhất tâm là sự hợp nhất của tâm với  ānāpāna nimitta. Khi quý vị phân biệt năm thiền chi, trước tiên quý vị nên phân biệt chúng theo tuần tự từng thiền chi một. Sau khi đã làm được điều này, quý vị có thể phân biệt cả năm thiền chi một lúc. Nếu như quý vị có thể phân biệt được năm thiền chi một lúc rồi thì quý vị nên tu tập năm pháp thuần thục, như sau:
Pháp thuần thục thứ nhất, quý vị nên thực tập nhập thiền (jhāna) bất cứ khi nào quý vị muốn nhập. Thứ hai, quý vị phải cố gắng xuất thiền bất cứ khi nào qúy vị muốn xuất. Thứ ba, quý vị nên trú trong thiền trong một, hai hoặc ba giờ theo sự quyết định của mình. Pháp thuần thần thục thứ tư và thứ năm thực sự được làm chỉ trong một bước, đó là, quán xét các thiền chi bất cứ khi nào quý vị muốn quán xét chúng. Nếu quý vị thành công trong việc tu tập năm pháp thuần thục này, quý vị có thể thực hành thiền thứ hai (nhị thiền), thiền thứ ba (tam thiền) và thiền thứ tư (tứ thiền) một cách hệ thống. Trong sơ thiền hơi thở trở nên vi tế; trong nhị thiền hơi thở vi tế hơn; trong tam thiền nó thậm chí còn vi tế hơn nữa; và trong tứ thiền hơi thở dừng lại hoàn toàn.
Tôi đã hỏi thăm nhiều hành giả để tìm hiểu xem bậc thiền nào được họ xem là tốt nhất. Đa số trong họ đều nói nhị thiền tốt hơn sơ thiền; tam thiền tốt hơn nhị thiền; và tứ thiền được xem là tốt hơn hết trong bốn bậc thiền.
Sự thành tựu này là nhờ sức mạnh ý chí. Mọi người ai cũng có sức mạnh ý chí cả. Vì thế quý vị nên chịu khó thực hành trong giáo pháp của Đức Phật. Nếu quý vị chịu khó thực hành mọi việc đều có thể khả dĩ đối với quý vị. Quý vị có thể thành công trong việc đạt đến cả bốn bậc thiền này.
Sau khi đắc tứ thiền nếu quý vị muốn thực hành các đề mục thiền chỉ (samatha), như mười kasiṇas, bốn phạm trú (brahmavihāra), quý vị có thể hành một cách dễ dàng. Còn nếu quý vị muốn hành thiền minh sát (vipassana) dựa trên tứ thiền hơi thở (the fourth ānāpāna jhāna), quý vị cũng có thể làm được như vậy. Có hai loại người thực hành minh sát dựa trên tứ thiền hơi thở, đó là người assāsapassāsakammika và người jhānakammika. Người ta thường dịch người assāsapassāsakammika là một hành giả quán hơi thở (ānāpāna) và người jhānakammika là hành giả quán bậc thiền (jhāna). Cách dịch này không chính xác. Vì thế tôi sẽ giải thích cách hai người này hành minh sát dựa trên tứ thiền hơi thở (the fourth ānāpāna jhāna) cho quý vị hiểu.
Thiền chỉ (samatha) có bốn mươi đề mục, trong khi thiền minh sát (vipassanā) chỉ có hai đề mục, đó là sự phân biệt hay quán sắc (rūpakammaṭṭhāna) và sự phân biệt hay quán danh (nāmakammaṭṭhāna). Đôi khi hai đề mục này còn được gọi là rūpa pariggaha (phân biệt sắc) và arūpa pariggaha (phân biệt danh). Nếu một hành giả đã đắc tứ thiền và phân biệt sắc trước, vị ấy được gọi là một assāsapassāsakammika. Nếu vị ấy quán danh trước thì vị ấy phải phân biệt năm thiền chi trước, và vị ấy được gọi là một jhānakammika.
Một người assāsapassāsakammika, sau khi xuất khỏi tứ thiền, phải phân biệt mười hai đặc tính của tứ đại trong hơi thở, đó là, cứng, thô, nặng, mềm, và nhẹ, lưu chảy và kết dính, nóng và lạnh, hỗ trợ và đẩy. Nếu tính theo nhóm, thì địa đại bao gồm cứng, thô, mềm, nặng, và nhẹ; thuỷ đại bao gồm: lưu chảy và kết dính; hoả đại bao gồm: nóng và lạnh; và phong đại bao gồm: hỗ trợ và đẩy. Nói chung vị ấy phải phân biệt tứ đại của hơi thở này một cách hệ thống. Nếu làm được như vậy, vị ấy sẽ thấy nhiều kalāpas (tổng hợp sắc). Nếu phân tích các tổng hợp sắc đó, vị ấy sẽ thấy rằng có ít nhất chín loại sắc trong mỗi kalāpa, đó là, địa đại, hoả đại, thuỷ đại, phong đại, màu, mùi, vị, dưỡng chất và âm thanh. Chín loại sắc này được gọi là thân hơi thở vô-ra (assāsapassāsakāya).
Sau khi phân biệt thân hơi thở vô-ra vị ấy phải quán như vầy: ‘Hơi thở vô ra này dựa vào cái gì? Trong khi đang suy quán như vậy vị ấy thấy rằng nó phát sanh dựa trên một căn. Căn là gì? Theo Vi-diệu-pháp (Abhidhamma) có sáu căn, đó là: nhãn-căn, nhĩ-căn, tỷ-căn, thiệt-căn, thân-căn, và ý căn. Theo pháp môn Kinh (Suttanta) thì căn là do thân sanh, bao gồm bốn loại sắc: (1) kammaja rūpa (sắc do nghiệp sanh, (2) cittaja-rūpa (sắc do tâm sanh), (3) utuja-rūpa (sắc do thời tiết sanh), và (4) ārāhaja-rūpa (sắc do vật thực sanh). Tại sao chúng lại khác nhau? Bởi vì pháp môn Kinh (Suttanta) là dành cho sự nghiên cứu thực tiễn, trong khi pháp môn Vi-diệu-pháp là để trình bày ý nghĩa chính xác.

Chẳng hạn, nếu quý vị phân biệt tứ đại trong con mắt của quý vị một cách hệ thống, quý vị sẽ thấy sáu loại tổng hợp sắc (kalāpas). Một trong sáu tổng hợp sắc ấy là nhãn thập sắc (cakkhu-dassaka-kalāpas-tổng hợp nhãn mười sắc). Nếu phân tích quý vị sẽ thấy được mười loại sắc của nó, đó là, đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị, dưỡng chất, mạng căn, và  tịnh nhãn sắc hay sắc thần kinh nhãn. Trong mười loại này, chỉ sắc thần kinh nhãn là nhãn-căn. Mặc dù chín loại sắc còn lại không phải là nhãn-căn, nhưng chúng được đi kèm bởi nhãn-căn, bởi vì cả chín loại sắc này sanh và diệt cùng thời với nhau, như một nhóm. Nếu không phân tích được chúng quý vị không thể phá vỡ được khối tưởng về tập hợp (samūha ghana) để thấy sắc chân đế. Vì lẽ không phân tích các kalāpas chúng ta không thể thấy được nhãn-căn, nên pháp môn Kinh (Suttanta) nói rằng căn là do thân sanh (karaja kāya-nghiệp sanh thân). Sự giải thích này cũng áp dụng cho nhĩ-căn, tỷ-căn, thiệt-căn, thân-căn, và ý-căn.
Tổng hợp nhãn mười sắc (cakkhu-dasāka-kalāpa) không thể khởi lên một mình. Nếu phân tích tứ đại trong con mắt của mình một cách hệ thống quý vị sẽ thấy nhiều loại kalāpas. Nếu quý vị lấy tay sờ con mắt của mình, quý vị biết được cảm giác xúc chạm, bởi vì trong con mắt của quý vị có các tổng hợp thân mười sắc (kāya-dassaka-kalāpas, body-decad kalāpas). Thân thức (kāya-viññāṇa) vốn biết sự xúc chạm, chỉ nương vào thân-căn để khởi lên. Trong con mắt cũng có các tổng hợp tánh mười sắc (bhāva-dassaka-kalāpas, sex-decad kalāpas).

Bởi vì nhờ sắc quyết định tánh (bhava-rūpa) của nó quý vị mới có thể dễ dàng hiểu được, ‘đây là một người đàn bà’, ‘đây là một người đàn ông.’ Tổng hợp nhãn mười sắc, tổng hợp thân mười sắc, và tổng hợp tánh mười sắc được tạo ra bởi nghiệp quá khứ, vì thế chúng được gọi là sắc do nghiệp sanh (kammaja rūpa). Khi muốn nháy mắt, quý vị có thể nháy mắt, vì thế quý vị biết rằng trong con mắt cũng có sắc do tâm sanh (cittaja rūpa). Trong mỗi kalāpa có hoả đại và hoả đại này có thể tạo ra nhiều thế hệ tổng hợp sắc (kalāpas) gọi là sắc do thời tiết sanh (utuja-rūpa). Khi dưỡng chất do vật thực sanh (āhāraja-ojā) hỗ trợ cho dưỡng chất này, nó tạo ra nhiều thế hệ tổng hợp sắc gọi là sắc do vật thực sanh (āhāraja-rūpa). Vì thế trong con mắt của chúng ta có tổng cộng sáu loại tổng hợp sắc. Nếu quý vị phân tích chúng, quý vị sẽ thấy có cả thảy năm mươi bốn loại sắc. Nhằm mục đích phá vỡ nguyên khối tưởng mà chúng ta phải cố gắng để thấy năm mươi bốn loại sắc này.
Kế đến quý vị phải phân biệt sáu căn xứ cà bốn mươi thân phần theo cách tương tự. Trong mỗi thân phần thường thường có bốn loại sắc: sắc do nghiệp sanh, sắc do tâm sanh, sắc do thời tiết sanh và sắc do vật thực sanh.
Chú giải giải thích những gì được gọi là nghiệp sanh thân (karaja-kāya) như sau: ‘nghiệp sanh thân bao gồm tứ đại và sắc do tứ đại sanh (sắc y đại sanh.) Điều này có nghĩa là gì? Trong mỗi tổng hợp sắc (kalāpa) có bốn đại —  địa đại, hoả đại, thuỷ đại và phong đại, và cũng có sắc y đại sanh như màu, mùi, vị, và dưỡng chất. Thực sự, có cả thảy hai mươi tám loại sắc: bốn sắc tứ đại và hai mươi bốn sắc y đại sinh. Quý vị phải phân biệt tất cả hai mươi tám loại sắc này.
Nếu quý vị chỉ quán sắc là vô thường, khổ và vô ngã, điều đó không đủ để quý vị chứng đắc Niết-bàn (Nibbāna). Quý vị cũng còn phải quán danh là vô thường, khổ và vô ngã nữa mới được. Khi quý vị đang phân biệt danh, thì các pháp thiền (jhāna dhamma) là tốt nhất để quý vị quán đầu tiên. Kế đến quý vị phải phân biệt danh dục giới (kāmāvacaranāma) theo các tiến trình tâm và những tâm ngoài tiến trình. Bởi thế chú giải giải thích: Kế tiếp hành giả nhận thức danh trong năm tâm hành bắt đầu với xúc (phassapañcamaka), đó là: xúc, thọ, tưởng, tư, thức. Trong năm pháp này: thọ là thọ uẩn, tưởng là tưởng uẩn; xúc và tư là hành uẩn; và thức là thức uẩn. Tổng cộng có bốn loại danh uẩn. Hai mươi tám loại sắc gọi chung là sắc uẩn. Như vậy có cả thảy năm uẩn. Trong số năm uẩn này, chú giải chỉ đề cập xúc và tư cho hành uẩn, bởi vì chúng là những yếu tố nổi bật trong hành uẩn. Khi hai yếu tố nổi bật này được đề cập, các yếu tố còn lại của nhóm hành cũng đã được bao gồm. Điều đó cũng giống như một đám rước của hoàng tộc, khi đức vua được đề cập thì những tuỳ tùng của đức vua cũng được bao gồm vậy.
Sau khi phân biệt danh và sắc xong, người hành thiền sẽ xem xét các nhân của chúng. Vị ấy thấy rằng các nhân chính của năm thủ uẩn là vô minh (avijjā), ái (taṇhā), thủ (upādāna), các hành (saṅkhāra), và nghiệp (kamma). Các nhân này đã được vị ấy tạo ra trong kiếp sống trước. Chúng tạo ra thức tái sanh trong kiếp hiện tại, hay vào sát na sanh của năm thủ uẩn. Người hành thiền cố gắng để thấy ra mối tương quan nhân quả giữa các nhân và các quả. Đây là nguyên lý Duyên Sanh. Rồi vị ấy kết luận được rằng danh và sắc chỉ là các duyên, các pháp được tạo ra từ các duyên, và rằng ngoài các duyên này ra không có một thực thể sống cũng không có một con người nào cả. Lúc đó, vị ấy kể như đã vượt qua hoài nghi.
Người hành thiền sau khi đã vượt qua hoài nghi sẽ quán ba đặc tính hay tam tướng­­­ — ­vô thường, khổ và vô ngã, của danh sắc và các nhân của chúng, và dần dần đạt đến A-la-hán thánh quả. Loại người này được gọi là người assāsapassāsakammika (vị hành giả quán sắc trước).
Bây giờ tôi sẽ giải thích loại người jhānakammika (vị hành giả quán danh trước). Sau khi đã đắc các bậc thiền hơi thở (ānāpāna jhānas) trước khi phân biệt sắc vị jhānakammika sẽ phân biệt danh trước. Vì khi đang hành thiền chỉ vị ấy đã có thể dễ dàng phân biệt các thiền chi rồi, nên khi bước vào hành minh sát vị ấy sẽ quán các thiền chi trước. Kế tiếp vị ấy phân biệt các tâm hành (tâm sở) kết hợp với các thiền chi. Các thiền chi và tâm hành đó được gọi là các pháp thiền (jhāna dhammas). Sau khi đã phân biệt các pháp thiền vị ấy phải xem xét như vầy: Nương vào cái gì các pháp thiền này khởi sanh? Và vị ấy thấy chúng khởi sanh dựa vào ý căn (tâm cơ). Ý căn, theo giải thích của pháp môn Kinh (Suttanta), là nghiệp sanh thân (karaja kāya) bao gồm bốn loại sắc: sắc do nghiệp sanh, sắc do tâm sanh, sắc do thời tiết sanh, và sắc do vật thực sanh.
Các pháp thiền (jhāna dhammas) là danh và nghiệp sanh thân là sắc. Sau khi đã phân biệt các pháp thiền xong, vị ấy truy tìm các nhân của chúng. Vị ấy thấy được các nhân nhờ hiểu biết trình tự duyên sanh bắt đầu với vô minh. Và vị ấy kết luận rằng danh và sắc chỉ bao gồm các duyên (điều kiện) và các pháp được tạo thành bởi các duyên, ngoài các duyên ra, không có một thực thể sống cũng không có một con người nào cả. Như vậy vị ấy vượt qua hoài nghi.
Người hành thiền sau khi đã vượt qua hoài nghi sẽ quán tam tướng, vô thường, khổ và vô ngã của danh, sắc và các nhân của chúng, và dần dần đạt đến A-la-hán thánh quả. Loại người này được gọi là người Jhānakammika.
Nếu hiểu được sự giải thích này quý vị sẽ hiểu những lời dạy của Đức Phật sau. Trong Đại Niệm Xứ Kinh (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta) Đức Phật dạy thiền minh sát dựa trên niệm hơi thở (ānāpānasati) như sau:
‘Như vậy vị ấy sống quán thân như nội thân. Hay vị ấy sống quán thân như ngoại thân (as a body externally). Hay vị ấy quán thân như nội thân và ngoại thân.’
Đây là giai đoạn mở đầu của thiền minh sát đối với một vị tỳ kheo đã thực hành niệm hơi thở (ānāpānasati) lên đến tứ thiền. Thế nào là thân (kāya)? Theo Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) thì có ba loại thân: (1) thân hơi thở vô-ra (assāsapassāsa kāya), (2) thân nghiệp sanh (karaja kāya), và (3) danh thân (nāma kāya). Tôi đã giải thích chúng ở trước và tôi nghĩ giờ đây quý vị chắc hẳn đã hiểu chúng rồi.
Làm thế nào để phân biệt sắc một cách tóm tắt tôi đã giải thích xong. Bây giờ tôi sẽ giải thích cách làm thế nào để phân biệt danh. Nếu quý vị muốn phân biệt, chẳng hạn, các pháp sơ thiền hơi thở, trước tiên quý vị phải nhập vào sơ thiền hơi thở. Sau khi xuất khỏi thiền ấy quý vị nên phân biệt bhavaṅga, ý môn. Khi tợ tướng hơi thở (ānāpāna paṭibhāga nimitta) xuất hiện trong bhavaṅga của quý vị, quý vị phải phân biệt năm thiền chi. Khi đang thực hành thiền chỉ quý vị đã có thể phân biệt được các thiền chi rồi, vì vậy việc này không có gì khó đối với quý vị. Cái khác duy nhất là ở chỗ quý vị phải phân biệt năm thiền chi đang khởi lên nối tiếp nhau nhiều lần mà thôi.

Nếu quý vị phân biệt được chúng một cách dễ dàng, quý vị có thể bắt đầu phân biệt, chẳng hạn như, thức. Có ba cách để bắt đầu phân biệt danh: (1) bắt đầu với xúc, (2) bắt đầu với thọ, và (3) bắt đầu với thức. Nếu quý vị chọn bắt đầu với thức, quý vị phải phân biệt thức đang khởi lên nối tiếp nhau nhiều lần. Nếu quý vị tự thấy mình không thể phân biệt được quý vị nên lập lại phương thức vừa đề cập ở trên, đó là nhập vào sơ thiền, rồi xuất khỏi nó và phân biệt bhavaṅga. Khi tợ tướng hơi thở (ānāpāna paṭibhāga nimitta) xuất hiện trong bhavaṅga, ý môn, quý vị phải phân biệt thức đang khởi lên nối tiếp nhau nhiều lần. Khi đã phân biệt được thức rồi quý vị nên gia tăng số danh (tâm hành) mình phân biệt, mỗi lần một (tâm hành), và từ từ lên đến ba mươi bốn tâm hành của sơ thiền. Ba mươi bốn tâm hành đó là gì? Quý vị có muốn biết không? Nếu muốn quý vị hãy cố gắng thực hành đi.
Trong ba loại thân tôi vừa đề cập, thân hơi thở vô-ra (assāsapassāsa kāya) và nghiệp sanh thân (karaia kāya) là sắc thân (rūpa kāya). Vì thế chúng ta có thể nói rằng chỉ có hai loại thân: sắc thân (rūpa kāya) và danh thân (nāma kāya) mà thôi. Tại sao chúng được gọi là thân?  Lý do là chúng không thể sanh lên một mình mà phải sanh như một nhóm.
Quý vị phải quán các thân này (sắc thân và danh thân) như là các thân. Tuy nhiên, nếu chỉ quán nội thân không thì không đủ để quý vị chứng đắc Niết-bàn (Nibbāna). Quý vị cũng phải quán ngoại thân nữa. Tại sao? Quý vị có tham ái, ngã mạn và tà kiến không chỉ đối với thân của quý vị thôi mà còn đối với nhiều thân bên ngoài nữa. Để loại trừ ái, mạn, kiến đối với những thân bên ngoài này, quý vị phải quán các thân bên ngoài chỉ là các thân. Ngã mạn của quý vị cũng có thể dựa vào sự thành tựu của con cái, vợ hay chồng của mình. Và để loại trừ sự ngã mạn này quý vị phải quán thân của họ là vô thường.

Để loại trừ tham  ái, hay sự dính mắc đối với những thân bên ngoài quý vị phải quán chúng là khổ. Quý vị có thể nghĩ, ‘đây là con trai của ta, đây là con gái của ta, đây là vợ của ta, hay đây là chồng của ta.’ Để loại trừ những tà kiến này quý vị phải quán thân của họ là vô ngã. Nếu quý vị quán hay phân biệt thế gian bên ngoài với tuệ giác như vậy, quý vị sẽ chỉ thấy danh và sắc tối hậu hay danh và sắc chân đế mà thôi. Mà danh và sắc tối hậu là vô thường vì ngay khi vừa sanh lên chúng liền diệt, là khổ vì chúng bị bức bách bởi sự sanh và diệt, và là vô ngã vì không có một cái ngã thường hằng hay một thực thể vững bền nào để quý vị có thể gọi, ‘đây là con trai của tôi, đây là con gái của tôi, đây là vợ của tôi, đây là chồng của tôi v.v…’

Nếu quý vị quán được như vậy, sự quán này sẽ làm giảm đi tham ái, ngã mạn và tà kiến của quý vị. Vì thế Đức Phật hướng dẫn: ‘Như vậy vị ấy sống quán thân (bên trong) như nội thân. Hay vị ấy sống quán thân (bên ngoài) như ngoại thân. Hay vị ấy sống quán thân như thân cả bên trong lẫn bên ngoài. Tại sao Đức Phật lại hướng dẫn như vậy? Đối với người mới bắt đầu, quán thân như nội thân chỉ trong một thời ngồi là không đủ. Quý vị phải thực hành trong nhiều ngày, hay thậm chí nhiều tháng mới được. Rồi quý vị cũng còn phải quán bên ngoài nữa. Với người mới bắt đầu thì việc thực hành này sẽ mất một vài ngày. Sau đó, trong một thời ngồi quý vị phải quán thân như thân cả bên trong lẫn bên ngoài, và làm đi làm lại nhiều lần. Quán chỉ một lần là không đủ. Việc quán đi quán lại nhiều lần là cần thiết. Chỉ khi quý vị quán đi quán lại như vậy quý vị mới có thể đè nén được ái, mạn và tà kiến, cùng với những phiền não khác được.

Đại Niệm Xứ Tường Giải
(Mahāsatipaṭṭhāna Sutta)
Tôn Giả Āciṇṇa, Dhammācariya – Pháp Sư
Aggamahākammaṭṭhānācariya – Đại Trưởng Lão Thiền Sư
Trưởng Ban Thiền Sư và Cố Vấn Thiền.