Nói năng như
Chánh Pháp
Tác giả : Vĩnh
Trưng edit by Sư Giới Tịnh.
SADDHAMMASSAVANA: Nghe diệu pháp, là được nghe chánh pháp,
được học hỏi chánh pháp. Sự lắng nghe chánh pháp của bậc Thiện trí, siêng học
hỏi.
SADDHAMMAṬHITI: hai nhân chánh pháp vững trú: Văn cú được
giữ đúng (sunikkhittañca padayañjanaṃ). Nghĩa lý được hiểu chính xác (attho ca
sunīto).
SADDHAMMAṬṬHITIYĀ: để duy trì chánh pháp.
CIRAṬṬHITIKASADDHAMMA: nguyên nhân chánh pháp vững trú.
DHAMMATEJA: uy lực pháp, chánh pháp có uy lực thắng tà.
PAṬIRŪPADESAVĀSA: Cư trú tại xứ thích đáng, ở chỗ có điều
kiện làm thiện. Ở nơi cό chánh pháp hay cό bậc thiện trí thức.
ATTHASAMMAPANIDHI: được nghe chánh pháp an trú thân, ngữ,
ý trong thiện pháp.
AYONISO UMMUJJANAṂ: hờ hững với chánh pháp nhiều suy luận
sai lầm không khéo vượt ra sai lầm.
PAKATISĀVAKA: Ngoài ra, đối với bậc Thanh Văn hạng thường
(Pakatisāvaka), ngay ở thời kỳ chánh pháp của Đức Phật còn lưu truyền trên thế
gian này, vẫn còn là một cơ hội tốt, để cho số Thanh Văn hạng thường này tiến hành
thiền tuệ. Nếu có đủ trí tuệ ba la mật từ nhiều đời nhiều kiếp ở quá khứ làm
duyên lành hỗ trợ, có thể dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc
Thánh Đạo, Thánh Quả nào đó, thì thật là diễm phúc biết dường nào! Nếu chưa được
chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả, thì âu cũng là duyên lành hi hữu để bồi bổ ba
la mật, hầu mong chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả ở vị lai.
Khách thập phương viếng thăm cảnh chùa đôi khi
bắt gặp câu “Nói năng như Chánh pháp” được thể
hiện đâu đó trong khung cảnh trang nghiêm
thanh nhã của chốn thiền môn.
Đó là câu nói khá quen thuộc của nhà Phật, cốt yếu khuyên nhắc
những người con Phật, đặc biệt là người xuất gia, cần phải lưu tâm gìn
giữ và vận dụng lời nói của mình sao cho phù hợp với Chánh pháp hay thể hiện
lời nói đúng như lời Phật dạy. Nghĩa là những lời nói ra phải bảo đảm mang lại
lợi ích cho mình và lợi lạc cho người khác.
Trong phương pháp giáo dục của Ngài, Đức Phật quan tâm huấn
luyện các học trò mình rất kỹ, cốt yếu tập cho họ có được một nền tảng đạo đức
trong sáng, thể hiện trong đời sống cá nhân cũng như trong quan hệ ứng xử với
mọi người. Cụ thể là việc rèn luyện thân, miệng, ý trở nên đoan
chánh ngay thẳng, không rơi vào khiếm khuyết hư hỏng. Tất cả mọi hành
vi thiện hay ác, tốt hay xấu của con người đều xuất phát từ ba cửa ngõ là thân,
miệng, ý. Do đó, nếu một người mà thân, miệng, ý không được uốn nắn cho ngay
thẳng thì mọi hành vi của người ấy sẽ rơi vào khiếm khuyết xấu ác, đưa đến hại
mình hại người. Trái lại, người nào có thân tu tập, có lời tu tập, có tâm tu
tập thì mọi hành động của người ấy sẽ trở nên hiền thiện tốt đẹp, đưa đến lợi
mình lợi người. Vậy thế nào là lời nói đưa đến lợi mình lợi người hay “nói năng
như Chánh pháp”?
Trước hết, người con Phật phải biết giữ gìn lời ăn tiếng nói của mình,
không để cho miệng lưỡi rơi vào những lời nói sai trái xấu ác gây tổn hại cho
tự thân và phương hại đến người khác như nói láo, nói hai lưỡi, nói lời
thô ác, nói lời phù phiếm vô ích. Thay vào đó, vị ấy chỉ nên nói những điều
chân thật, đúng đắn; những điều đưa đến đoàn kết, hòa hợp; những điều tao nhã,
hiền hòa; những điều có ý nghĩa, lợi lạc. Đức Phật nhắc nhở các học trò mình:
“Vị Thánh đệ tử từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo; nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ bỏ nói lời phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi”.
“Vị Thánh đệ tử từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo; nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ bỏ nói lời phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi”.
Như vậy, nói năng như Chánh pháp hay thể hiện lời nói
đúng như lời Phật dạy trước hết là tập dứt bỏ nói dối, chỉ chuyên tâm nói
đúng sự thật; dứt bỏ nói lời gây chia rẽ người này người khác, chỉ nói
những lời đưa đến hòa hợp; dứt bỏ nói những lời thô ác, chỉ nói những lời nhẹ
nhàng hiền hòa; dứt bỏ nói những điều phù phiếm vô ích, chỉ nói những điều có ý
nghĩa, khiến tâm tư được tịnh lạc. Theo lời Phật, người nào thể hiện lời nói
của mình theo cách trên tức là có khẩu hành thanh tịnh, biết nghĩ đến lợi
ích của mình và lợi lạc cho người khác [1].
Một phương diện quan trọng khác liên quan đến
việc thể hiện lời nói phù hợp với Chánh pháp hay đúng với tinh thần lời Phật
dạy, đó là người Phật tử cần phải cân nhắc lời nói của mình, xem điều mình nói
ra có đúng thời hay không, có chân thật hay không, có nhu nhuyến hay không, có
lợi ích hay không và có từ tâm hay không. Nếu lời nói ra hội đủ năm đức tính
trên thì được xem là “nói năng như Chánh pháp” hay thực tập “khẩu hành
thanh tịnh” đưa đến tự lợi và lợi tha. Nói cách khác, Đức Phật khuyên
chúng ta nên nói đúng thời, nói lời chân thật, nói lời nhu thuận, nói lời
có lợi ích và nói với lòng từ bi thương quý mọi người. Ngài nhắc nhở các
đệ tử:
“Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Thầy có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chân thực hay không chân thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời chân thực hay nói lời không chân thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ- kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Thầy cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, như vậy các Thầy cần phải học tập” [2].
“Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Thầy có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chân thực hay không chân thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời chân thực hay nói lời không chân thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ- kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Thầy cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, như vậy các Thầy cần phải học tập” [2].
Đúng thời tức là lời nói ra phải đúng lúc, hợp thời, đúng đối tượng,
khiến cho người nghe có thể tiếp thu lời nói một cách có hiệu quả. Một người
đang ăn hay đang mải mê làm công việc mà nói cho người ta nghe về điều gì đó
thì không đúng lúc và lời nói sẽ không có hiệu quả. Hãy để cho người ta rảnh
tay đã rồi mới nói thì lời nói mới có tác dụng tốt đẹp. Tương tự, một người
đang học cấp một mà nói những vấn đề thuộc trình độ cấp ba thì cũng không đúng
lúc và lời nói cũng không có hiệu quả.
Chân thật tức là lời nói ra phải chân chánh đúng đắn, xuất phát từ tâm
chân trực, thẳng thắn, không thiên vị, không vụ lợi. Kinh Phật gọi là “nói như
hoa”, nghĩa là lời nói đúng sự thật, thấy thì nói có thấy, không thấy thì
nói không thấy; biết thì nói có biết, không biết thì nói không biết; nghe thì
nói có nghe, không nghe thì nói không nghe [3]…
Nhu nhuyến tức là lời nói ra phải nhẹ nhàng, từ tốn, hiền hòa,
thuận tai, dễ nghe, khiến người khác hoan hỷ, hài lòng, phát khởi lòng
tin hướng về thiện pháp. Kinh Phật gọi là “nói như mật” hay nói lời từ tốn, tức
là “lời nói không hại, khiến tai ưa nghe, khả ái, đi thẳng đến tâm, lễ độ, được
nhiều người ưa thích, được nhiều người thích ý” [4] hay “mặt đối mặt với ai,
không nói lời mất lòng; chỉ nói từ từ, không có vội vàng” [5]
Có lợi ích nghĩa là lời nói ra phải bảo đảm đưa đến lợi lạc cho người
nghe, khiến cho người nghe phát khởi tín tâm, tăng
trưởng điều lành, giảm thiểu điều ác, tăng trưởng giới đức, tâm
đức, tuệ đức, giải thoát và giải thoát tri kiến đức. Để làm được điều này,
người con Phật phải biết tránh đề cập các vấn đề thuộc lãnh vực dục vọng thế
gian, chỉ tập trung thảo luận hay làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến Phật
pháp, khiến cho người nghe tăng trưởng tín tâm mà chuyên tâm thực
hành lời Phật dạy [6].
Có từ tâm nghĩa là lời nói ra phải xuất phát từ động cơ thương quý
người khác, mong muốn cho người nghe được lợi ích an lạc, không phải vì ghét bỏ
hay do sân hận bực phiền mà “trút lên đầu người ta” những lời báng bổ. Đức Phật
khuyên các học trò mình nuôi dưỡng thái độ tôn trọng và thương quý người khác
bằng cách thực thi thân hành từ ái, khẩu hành từ ái, ý hành từ ái đối với hết
thảy mọi người, cả trước mặt lẫn sau lưng [7]. Khẩu hành từ ái tức là những lời
nói ra có từ tâm, xuất phát từ lòng thương quý người khác, mong muốn cho
người khác được tiến bộ lợi lạc trong thiện pháp.
Để hỗ trợ cho việc thực thi lời nói có hiệu quả tốt đẹp, nghĩa là
đúng thời, chân thật, nhu nhuyến, có lợi ích và có từ tâm, Đức Phật
khuyên mỗi người chúng ta cần phải biết nuôi dưỡng tâm ý trong sáng, không biến
nhiễm, có lòng lân mẫn đối với người khác, có nội tâm an tịnh, không
hận, không sân, tuyệt không nói lời ác. Bởi mỗi lời nói
hay việc làm là hiện thân của ý tưởng hay hệ quả sự vận hành của tâm thức. Vì
vậy, nếu một người có tâm ý trong sạch, an tịnh, không cấu uế, không giận
dữ bực phiền, có lòng thương quý người khác thì tự nhiên sẽ có lời nói chân
chánh, hiền thiện, lợi mình lợi người. Tâm trong sáng hiền thiện thì lời nói
trong sạch hiền hòa.
Nhìn chung, “nói năng như Chánh pháp” hay
thực thi lời nói phù hợp với Chánh pháp, đúng như lời Phật dạy, là một
pháp môn tu tập hết sức căn bản và quan trọng của người con
Phật. Tu tập lời nói thuộc về phạm trù đạo đức, giúp cho cá nhân cơ hội thực tập
và hoàn thiện nhân cách của chính mình, đồng thời khiến cho cuộc sống trở
nên hiền thiện tốt đẹp, đưa đến hạnh phúc an lạc cho
nhiều người. Do tầm quan trọng của nó trong cuộc sống, đạo Phật xem lời
nói là một phương tiện hữu hiệu, cần được sử dụng đúng đắn và thích
đáng để thiết lập hạnh phúc cho mình và tạo an lạc cho
người khác. Nói như thế nào để không gây tổn hại cho mình và không phương hại
đến người khác, để mang lại lợi ích cho mình và lợi lạc cho người khác. Người
con Phật luôn tự dặn lòng mình như thế và tìm thấy các chỉ dẫn căn bản cho việc
thực thi lời nói của mình thông qua những lời dạy hiền thiện của
Đức Bổn sư.
Chú thích:
Chú thích:
1. Kinh Những
người ở Veludvàra, Tương Ưng Bộ.
2. Kinh Ví dụ
cái chưa, Trung Bộ.
3. Kinh Nói
như hoa, Tăng Chi Bộ.
4. Kinh Nói
như hoa, Tăng Chi Bộ.
5. Kinh Vô
tránh phân biệt, Trung Bộ.
6. Kinh Những
đề tài câu chuyện, Tăng Chi Bộ.
7. Tiểu kinh
Tùy phiền não, kinh Kosambiya, Trung Bộ.
Theo: Văn
hóa Phật giáo số 153/ vanhoaphatgiaoblog
http://goo.gl/QiEqR
Google blogger Sư Giới Tịnh đọc
thêm nhiều tài liệu.
http://www.songthien.org Địa chỉ trang
WEB mp3 Sư Giới Tịnh…