Thursday, September 25, 2014

Quán Thọ




  
Sau khi giới thiệu thân quán niệm xứ qua mười bốn phương pháp, Đức Phật tiếp tục giảng giải mười chín phương pháp quán thọ như sau:

Quán Thọ

‘Và, này các tỳ-kheo, vị tỳ-kheo sống quán thọ là thọ như thế nào?
Ở đây, này các tỳ-kheo, khi cảm giác (kinh nghiệm) một lạc thọ vị tỳ-kheo tuệ tri: ‘Ta đang cảm giác một lạc thọ.” Khi cảm giác một khổ thọ vị ấy tuệ tri: “Ta đang cảm giác một khổ thọ.” Khi cảm giác một bất khổ bất lạc thọ vị ấy tuệ tri: “Ta đang cảm giác một bất khổ bất lạc thọ.”

Khi một vị tỳ-kheo cảm giác một lạc thọ thuộc về thân hay thuộc về tâm, vị ấy tuệ tri, ‘Ta đang cảm giác một lạc thọ.’ Chắc chắn, khi cảm giác một lạc thọ, ngay cả đứa bé còn nằm ngửa cũng biết rằng nó đang cảm giác lạc trong việc bú vú và trong những trường hợp tương tự. Nhưng sự hiểu biết của vị tỳ-kheo thì khác. Sự hiểu biết mà những đứa bé có được về lạc và những loại hiểu biết tương tự khác về lạc không trục xuất được niềm tin nơi một chúng sinh. Nó không nhổ bật gốc cái ảo tưởng về một chúng sinh, không trở thành một đề tài thiền và cũng không trở thành sự tu tập niệm xứ. Vì sao? Bởi vì chúng không biết danh và sắc chân đế; chúng không biết các nhân của danh sắc; chúng không biết bản chất vô thường, khổ và vô ngã của danh và sắc chân đế. Vì thế chúng lầm tưởng rằng ‘đây là cha, đây là mẹ, đây là ta, đây là nó, đây là con trai của ta, đây là con gái của ta…’


Tuy nhiên sự hiểu biết (tri kiến) của vị tỳ-kheo thì khác. Sự hiểu biết đó trục xuất được niềm tin nơi một chúng sinh và nhổ bật gốc ảo tưởng về một chúng sinh. Vì sao? Vì vị ấy có thể thấy được danh và sắc chân đế và các nhân của chúng. Vị ấy có thể thấy được bản chất vô thường, khổ và vô ngã của các hành (danh và sắc) này. Vị ấy chỉ thấy danh và sắc, không có cha, không có mẹ, không con trai, không con gái, …Vì thế sự hiểu biết của vị ấy trục xuất được niềm tin nơi một chúng sinh và nhổ bật gốc ảo tưởng về một chúng sinh. Nó vừa là một đề tài thiền, vừa là sự tu tập niệm xứ.

Để hiểu rõ hơn, chú giải đã giải thích điều này bằng cách trả lời ba câu hỏi. (1) Ai cảm giác? Không có chúng sinh hay người cảm giác. (2) Cái cảm giác ấy là của ai? Cảm giác ấy không phải của một chúng sinh hay người. (3) Do cái gì mà có sự cảm giác ấy? Thọ có thể khởi lên với một vài thứ — sắc, thinh, hương, …kể như đối tượng. Bởi thế, vị tỳ-kheo ấy hiểu rằng có một cảm giác đơn thuần về thọ sau khi đối tượng hoá một cơ sở vật lý lạc, khổ hay trung tính đặc biệt nào đó. Không có cái tôi nào cảm thọ bởi vì không có người làm hay không có tác nhân làm ngoài một tiến trình thuần tuý của hiện tượng. Chữ ‘thuần tuý’ chỉ ra rằng tiến trình (cảm thọ) là phi nhân tính (khách quan). Những từ dùng trong Kinh Điển như ‘Tôi cảm thọ’, chỉ là một hình thức diễn đạt theo quy ước cho tiến trình cảm thọ phi nhân tính ấy mà thôi. Điều cần hiểu ở đây là vị tỳ-kheo đó hiểu rằng do lấy một đặc tính hay cơ sở nào đó làm đối tượng vị ấy cảm giác một cảm thọ.

Chú giải nói rằng, một vị Trưởng lão nọ ngụ ở Tu Viện (trên) Đồi Cittala (Cittalapabbata) bị bịnh. Ngài lăn lộn hết bên này sang bên kia, rên rỉ với sự đau đớn cực độ. Một vị tỳ-kheo trẻ nói với ngài: ‘Bạch Trưởng lão, chỗ nào trên thân ngài đau? Vị trưởng lão trả lời: ‘Thực sự, không có một chỗ đau đặc biệt ở đâu cả. Do lấy một vật nào đó, như màu sắc, âm thanh…làm đối tượng mà có sự cảm giác về thọ khổ đấy thôi.’

‘‘Thực sự, không có một chỗ đau đặc biệt nào cả.” Đây là những lời rất quan trọng. Nếu quý vị muốn thực hành pháp quán thọ (vedanānupassanā), nhưng quý vị cứ nghĩ rằng lưng quý vị đau, hay đầu quý vị đau,… việc thực hành của quý vị không phải là quán thọ. Tại sao vị Trưởng lão lại trả lời theo cách này? Bởi vì ngài đã thấy danh và sắc chân đế và các nhân của chúng. Ngài cũng thấy được bản chất vô thường, khổ và vô ngã của danh và sắc chân đế đó.

Trong khi quý vị đang hành thiền, giả sử nếu có một cảm giác đau buốt nơi vai, và nếu quý vị muốn hành quán thọ, quý vị sẽ hành như thế nào? Quý vị phải phân biệt tứ đại trong thân, đặc biệt nơi vai của quý vị. Quý vị sẽ chỉ thấy các kalāpas. Nếu quý vị phân tích các kalāpa ấy, quý vị sẽ thấy bốn mươi bốn loại sắc. Trong số bốn mươi bốn sắc này, quý vị nên đặc biệt quán thân tịnh sắc (kāya pasada), tức thân căn, trong Kāya-dasaka-kalāpa (Tổng Hợp Thân Mười Sắc hay Đoàn Thân). Gần những kalāpa ấy có thể có một đại nào đó, như địa đại, hoặc hoả đại hoặc phong đại qúa thạnh, chẳng hạn cứng quá, nóng quá và đẩy quá (đẩy là một đặc tính của phong đại). Ba đại này là những đối tượng có thể sờ chạm được. Chúng có thể tác động trên thân tịnh sắc của quý vị. Khi chúng tác động trên thân tịnh sắc nhiều lần, ở đó sẽ xuất hiện thọ khổ (cảm giác đau) cùng với những tâm hành phối hợp của nó trong tiến trình tâm. Quý vị có thể nói rằng quý vị đang cảm giác một thọ khổ lúc đó. Nhưng thân tịnh sắc và các đối tượng xúc chạm là vô thường. Thọ khổ cũng vô thường. Ngay khi sanh lên chúng liền diệt. Vào lúc đó, quý vị sẽ không thấy vai của quý vị đâu nữa mà chỉ thấy danh và sắc chân đế. Như vậy lấy một xúc chạm làm đối tượng, thọ khổ xuất hiện. Quý vị phải hiểu điều này một cách rõ ràng. Lúc đó quý vị sẽ không thấy chỗ đau đâu hết. Nếu  quý vị vẫn thấy nó, có nghĩa là quý vị không phải đang hành quán thọ. Quý vị hãy nghe lại câu trả lời của vị Trưởng lão một lần nữa: ‘Thực sự, không có một chỗ đau đặc biệt nào cả. Do lấy một vật nào đó, như màu sắc, âm thanh…làm đối tượng mà có sự cảm giác về thọ khổ đấy thôi.’

Cittalapabbata là một tu viện nổi tiếng ở Tích Lan. Tu viện này toạ lạc trong một khu rừng rộng lớn. Vị Trưởng lão đó là một Mahāthera (Đại Trưởng lão), tức một vị tỳ-kheo đã trải qua hai mươi hoặc hơn hai mươi hạ. Ngài chắc chắn sẽ đắc Alahán Thánh Quả với tứ tuệ phân tích. Vì ngài đã thực hành Vipassanā đến Hành Xả Trí (saṅkhārupekkhā ñāṇa) trong thời kỳ giáo pháp của các vị Phật trước. Trong kiếp này cũng vậy, ngài đã hành thiền chỉ và thiền minh sát tại tu viện Cittalapabbata trong hơn hai mươi năm. Suốt thời gian đó ngài thực hành phân biệt danh và sắc chân đế cùng với các nhân của chúng như vô thường, khổ và vô ngã. Đó là lý do vì sao ngài có thể không thấy bất cứ một chỗ đau nào mà chỉ thấy danh và sắc chân đế. Nếu quý vị muốn thực hành quán thọ, quý vị nên noi theo tấm gương của ngài.

Một thời, trong tu viện đó, có hơn hai mươi ngàn vị tỳ-kheo là bậc Alahán đang hành thiền chỉ và thiền minh sát. Vị tỳ-kheo trẻ, người đã hỏi câu hỏi ấy là thị giả của Trưởng lão. Vị tỳ-kheo trẻ nói: ‘Bạch ngài, từ khi một người biết được điều đó, phải chăng kham nhẫn là thích hợp? Vị Trưởng lão nói: ‘Ta đang kham nhẫn, này hiền giả.’ Vị tỳ-kheo trẻ nói: ‘Kham nhẫn là đệ nhất, bạch ngài.’ Vị Trưởng lão đã kham nhẫn chịu đựng. Sau đó, phong đại đẩy chỗ đau lên thấu tận tim. Ruột của ngài lòi ra ngoài và nằm một đống trên giường. Vị Trưởng lão chỉ cho vị tỳ-kheo trẻ thấy điều đó và nói: ‘Này hiền giả, kham nhẫn tơi mức này thích hợp chăng? Vị tỳ-kheo trẻ lặng thinh. Vị Trưởng lão tập trung với hết nghị lực của mình, đạt đến Alahán thánh quả cùng với tứ tuệ phân tích và an nhiên thị tịch Niết bàn.

Thoạt tiên, khi cảm thọ khổ khốc liệt nảy sanh, vị Trưởng lão phải kham nhẫn  nó với nhiều cố gắng. Khi ruột của ngài lòi ra ngoài và nằm một đống trên giường, thọ khổ giảm xuống. Vào lúc đó, ngài có thể quân bình định và tinh tấn, áp dụng chúng và quán các hành là vô thường, khổ và vô ngã. Lúc đó phân biệt bất cứ một hành nào cũng đủ để ngài chứng đắc Niết-bàn, bởi vì ngài đã từng hành minh sát lên đến Hành Xả Trí (saṅkhārupekkhā ñāṇa) nhiều lần. Đây là một lý do. Trong kiếp đó, ngài còn nghiên cứu và thực hành thiền chỉ và thiền minh sát hơn hai mươi năm, nghĩa là ngài đã nghiên cứu danh và sắc chân đế cùng với các nhân của chúng kể như vô thường, khổ và vô ngã cho đến hành xả trí nhiều lần. Vì thế ngài đạt đến A-la-hán thánh quả cùng với tứ tuệ phân tích và nhập vô dư Niết Bàn.

Cũng như khi cảm giác một thọ lạc, nếu ‘khi cảm giác một thọ khổ vị ấy tuệ tri: ‘Ta đang cảm giác một thọ khổ.’ Và khi cảm giác một bất khổ bất lạc thọ vị ấy tuệ tri: ‘Ta đang cảm giác một bất khổ bất lạc thọ.’

Trừ trước đến đây chỉ ba loại thọ được đề cập. Kế tiếp Đức Phật dạy sáu loại thọ khác:
‘Khi cảm giác một lạc thọ thuộc vật chất vị ấy tuệ tri: “Ta đang cảm giác một lạc thọ thuộc vật chất.” Khi cảm giác một lạc thọ không thuộc vật chất vị ấy tuệ tri: “Ta đang cảm giác một lạc thọ không thuộc vật chất.”; hay khi cảm giác một khổ thọ thuộc vật chấy vị ấy tuệ tri: “Ta đang cảm giác một khổ thọ thuộc vật chất.” Khi cảm giác một khổ thọ không thuộc vật chất vị ấy tuệ tri: “Ta đang cảm giác một khổ thọ không thuộc vật chất.”; hay khi cảm giác một bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất vị ấy tuệ tri: “Ta đang cảm giác một bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất.”; hay khi cảm giác một bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất vị ấy tuệ tri: “Ta đang cảm giác một bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất.”’
Có ba loại thọ thuộc vật chất, đó là lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất.

Lạc thọ thuộc vật chất muốn nói đến sáu cảm giác thích thú liên hệ với sáu căn, và dựa vào cái vốn bị ô nhiễm bởi phiền não. Khổ thọ thuộc vật chất muốn nói đến những cảm giác không thích liên hệ với sáu căn, và dựa vào cái vốn bị ô nhiễm bởi phiền não. Bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất muốn nói đến sáu cảm giác trung tính liên hệ với sáu căn và dựa vào cái vốn bị ô nhiễm bởi các phiền não.

Chẳng hạn, nếu quý vị dính mắc vào một màu sắc nào đó, đôi khi quý vị có thể có được cảm thọ lạc. Quý vị sẽ rất sung sướng khi thấy sắc diện của con trai mình, sắc diện của con gái mình, hay màu sắc của những tờ đô-la của mình. Đây là lạc thọ thuộc vật chất. Đôi khi, dựa vào màu sắc đó, quý vị có thể có những cảm thọ khổ. Chẳng hạn, khi tiền mất, con trai, con gái chết…Đây là thọ khổ thuộc vật chất. Đôi khi, dựa vào màu sắc đó, một cảm thọ trung tính xuất hiện. Đây là bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất.

Cũng có ba loại thọ không thuộc vật chất, đó là lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất.
Lạc thọ không thuộc vật chất muốn nói đến sáu cảm giác thích thú liên hệ với sáu căn môn, và không dựa vào tham dục. Khổ thọ không thuộc vật chất muốn nói đến sáu cảm giác không thích liên hệ với sáu căn môn và không dựa vào tham dục. Bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất muốn nói đến sáu cảm giác trung tính liên hệ với sáu căn môn và không dựa vào tham dục.

Trong Pāḷi, thọ không thuộc vật chất được gọi là nekkhammasitavedanā (Xuất ly thọ). Thế nào là nekkhamma (sự xuất ly)? Theo kinh điển Pāḷi, có năm loại xuất ly: xuất gia, sơ thiền, Nibbāna (Niết-bàn), minh sát trí (vipassanā ñāṇa) và tất cả các thiện pháp.

1.    Xuất gia (pabbajjā): Điều này đặc biệt muốn nói đến đời sống của vị tỳ-kheo hay tu nữ, bởi vì nhờ xuất gia mà các vị tỳ-kheo hay tu nữ thoát khỏi đời sống của người gia chủ.
Mặc dù sống đời sống của vị tỳ-kheo, cũng có thể có những lạc thọ, khổ thọ hay bất lạc bất khổ thọ. Như thế nào? Nếu quý vị suy xét đến giới hạnh của mình, đôi khi quý vị thấy rằng nó rất trong sạch. Vào lúc đó, quý vị cảm thấy vui vui. Vui đó là một lạc thọ không thuộc vật chất. Đôi khi quý vị có thể thấy một lầm lỗi nào đó trong giới hạnh của mình. Vào lúc đó quý vị cảm thấy không vui. Không vui đó là khổ thọ không thuộc vật chất. Đôi khi, quý vị suy xét trên giới hạnh của mình và có thể không có cảm giác lạc hay khổ gì cả. Đó là bất lạc bất khổ thọ không thuộc vật chất. Như vậy có ba loại thọ dựa vào đời sống xuất gia.

Lại nữa, trong khi suy xét trên đời sống tỳ-kheo hay tu nữ của mình, quý vị có thể cảm thấy vui, bởi vì quý vị thoả mãn với loại cuộc sống ấy. Đây là một lạc thọ không thuộc vật chất. Nhưng đôi khi có thể có nhiều vấn đề trong cuộc sống xuất gia của mình vị và quý vị muốn xả y hoàn tục. Đây là một khổ thọ không thuộc vật chất. Đôi khi, suy xét trên cuộc sống xuất gia này, quý vị có một cảm giác trung tính. Đây là một bất lạc bất khổ thọ. Như vậy, dựa vào đời sống của một vị tỳ-kheo hay tu nữ cũng có ba loại thọ.

2.    Sơ thiền (paṭhama jhāna): Sơ thiền được gọi là xuất ly bởi vì nó có thể giúp một người thoát khỏi cõi dục. Nó là nhân căn bản cho việc đạt đến một phạm thiên giới (Bhrama).
Dựa vào Sơ thiền (paṭhama jhāna), có thể có một lạc thọ. Chẳng hạn, khi quý vị nhập vào sơ thiền, lạc thọ xuất hiện. Đây là một lạc thọ không thuộc vật chất. Nhưng có khi dựa vào sơ thiền quý vị cũng có thể có một khổ thọ. Vì sao? Khi quý vị không thể nhập vào sơ thiền theo ý muốn, hoặc khi quý vị có nhiều khó khăn khi nhập vào sơ thiền, quý vị có thể cảm thấy không vui. Không vui này là một khổ thọ không thuộc vật chất. Đôi khi, quý vị đang cố gắng đi cố gắng lại nhiều lần để nhập sơ thiền, nhưng quý vị có thể không có một cảm giác đặc biệt nào cả (tức không thấy vui cũng không thấy buồn vì chuyện đó). Đây là một bất lạc bất khổ thọ không thuộc vật chất.

Bảy thiền chứng khác từ nhị thiền cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng được gọi là xuất ly, nhưng chúng nằm trong nhóm thứ năm, tức nhóm tất cả thiện pháp.
Nếu một hành giả duy trì thiền (jhāna) của mình cho đến lúc chết, thiền ấy sẽ là nhân căn bản cho vị đó để được tái sanh vào một cõi sắc giới hay vô sắc giới, tuỳ theo. Vào lúc đó, vị ấy thoát khỏi cõi dục. Đó là lý do vì sao tám thiền chứng được gọi là xuất ly.

3.    Nibbāna (Niết-bàn): Đây là nhân căn bản cho một người để thoát khỏi vòng tử sanh luân hồi, vì thế nó được gọi là sự xuất ly.
Quý vị nên phân biệt giữa chứng ngộ và chứng đắc. Nếu quý vị chứng ngộ  Niết Bàn (Nibbāna), chúng tôi nói rằng quý vị đang lấy  Nibbāna làm đối tượng. Còn chứng đắc có nghĩa là quý vị đã đạt đến Niết bàn sau khi Parinibbāna (Vô Dư Niết Bàn).

          Ở đây, tôi muốn giải thích một vấn đề.  Có một hành giả nữ hỏi tôi: ‘Tại sao con không thấy có gì khác nhau nào giữa một bậc Thánh và một người phàm?’ Tôi nghĩ cô ta không thực sự hiểu thế nào là một bậc Thánh. Thánh nhân có bốn đôi: đó là bốn bậc Thánh thuộc đạo và bốn bậc thánh thuộc quả. Tất cả các vị đều đã chứng ngộ Niết Bàn (Nibbāna). Khi một người chứng ngộ Niết Bàn với nhập lưu thánh đạo (Sotāpattimagga) và nhập lưu Thánh quả (Sotāpattiphala), thánh đạo của vị ấy huỷ diệt thân kiến (sakkāyadiṭṭhi) và hoài nghi (vicikicchā) về Đức Phật, Giáo Pháp, Chư Tăng, và về duyên khởi..

Nhập lưu thánh đạo không thể đoạn diệt ái dục, sân hận và si mê, vì thế một bậc thánh nhập lưu vẫn có nhiều phiền não. Đó là lý do vì sao vị ấy vẫn có thể lấy vợ hoặc lấy chồng, hưởng thụ các dục lạc và nổi sân như thường. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể nói rằng giữa bậc thánh nhập lưu và người phàm không có gì khác nhau, bởi vì bậc nhập lưu đã huỷ diệt một số phiền não. Thời Đức Phật, có năm mươi triệu người cư sĩ đắc thánh ở Sāvatthī. Một số trong họ là các bậc thánh nhập lưu, một số là bậc thánh nhất lai, và một số là bậc thánh bất lai. Họ vẫn sống trong nhà của họ và, ngoại trừ các bậc bất lai (tức thánh a-na-hàm), họ vẫn thọ hưởng các dục lạc như những người bình thường vậy. Vì thế, quý vị không nên, chỉ vì thấy họ cũng hưởng dục như người bình thường, mà nghĩ rằng không có gì khác giữa bậc thánh và người phàm.

Nhất lai thánh đạo (sakadāgāmīmagga) làm suy yếu dục ái và sân, nhưng không thể huỷ diệt chúng hoàn toàn. Bất lai thánh đạo (anāgāmimagga) diệt hoàn toàn dục ái và sân. A-la-hán thánh đạo diệt hết mọi phiền não còn lại. Vì thế nếu quý vị muốn thấy những khác nhau giữa một bậc bất lai hay một bậc A-la-hán với người phàm, quý vị có thể thấy một số khác nhau ấy. Một bậc thánh Bất lai hay A-la-hán không còn dục ái. Vị ấy không bao giờ sân hận. Vị ấy không bao giờ nhận cũng không yêu cầu người khác nhận tiền, thẻ tín dụng, ngân phiếu, đá quý, vàng, bạc, ngọc… dùm cho vị ấy.

Tuy nhiên, vẫn là điều rất khó để phân biệt được ai là một bậc thánh và ai không phải. Xưa kia, có một vị A-la-hán tỳ-kheo sống chung với một vị tỳ-kheo già, xuất gia lúc tuổi đã xế chiều. Một hôm vị tỳ-kheo già ấy hỏi vị A-la-hán một câu hỏi: ‘Bạch ngài, một vị A-la-hán trông giống như thế nào nhỉ?’ vị A-la-hán tỳ-kheo trả lời: ‘Này hiền giả, có người nọ xuất gia lúc tuổi đã già. Mặc dù vị ấy sống chung với một bậc A-la-hán, vị ấy cũng không biết được rằng người đang sống chung với mình là một bậc A-la-hán. Vì thế rất khó mà biết được ai là một bậc thánh A-la-hán.’ Thậm chí có được một lời gợi ý rõ ràng đến như vậy, vị tỳ-kheo già vẫn không biết rằng Bhante (Thầy) của mình là một bậc A-la-hán. Và tất nhiên biết được ai là một bậc thánh nhập lưu. nhất lai hay bất lai còn khó hơn nữa.

Trước khi đắc  Niết bàn tối hậu (nhập Vô Dư Niết Bàn), một bậc A-la-hán vẫn có năm uẩn và chưa hoàn toàn thoát khỏi khổ đau. Chính vì điều này mà mười tháng trước khi nhập Vô Dư Niết Bàn, Đức Phật của chúng ta vẫn phải chịu khổ vì chứng bệnh đau lưng trầm trọng của ngài. Sau khi Vô Dư Niết Bàn, mọi khổ đau chấm dứt hoàn toàn. Vì thế  Niết Bàn (Nibbāna) được gọi là xuất ly.

4.    Minh sát Trí (Vipassanānñāṇa) được gọi là xuất ly vì nó đoạn trừ phiền não một cách tạm thời.
5.    Tất cả các thiện pháp cũng được gọi là xuất ly vì chúng là những nhân căn bản để thoát khỏi mọi bất thiện pháp hay phiền não.
Lấy bất cứ một loại nào trong năm loại xuất ly này làm đối tượng, ba loại thọ có thể khởi lên. Những thọ này được gọi là nekkhammasitavedanā (xuất ly thọ), tức những thọ không thuộc vật chất. Người hành thiền phải cố gắng để hiểu rõ các thọ này.

Như vật tất cả có chín loại thọ. Khi quán thọ quý vị phải phân biệt chúng. Trong chín thọ ấy, quý vị không nên tu tập ba loại thọ thuộc vật chất, thay vào đó nên tu tập ba loại thọ không thuộc vật chất. Tôi muốn giải thích điều này cho quý vị hiểu.

Khi định hay minh sát trí của quý vị cải thiện trong lúc đang hành thiền chỉ hoặc thiền Minh Sát (Vipassanā), quý vị có thể cảm thấy lạc. Quý vị nên tu tập loại thọ lạc này nhiều lần, bởi vì đây là một nhân hỗ trợ cho sự chứng ngộ Niết Bàn (Nibbāna). Quý vị cũng nên tu tập bất lạc bất khổ thọ không thuộc vật chất, đặc biệt là bất lạc bất khổ thọ không thuộc vật chất phát sanh từ thiền. Còn loại thọ khác là khổ thọ không thuộc vật chất, mà thực chất vốn là một bất thiện pháp. Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó, có hay bị loại khổ thọ này không phải là điều xấu. Tại sao? Có một câu chuyện kể về loại thọ này. Trong một bài giảng trước, Tôi có liên hệ câu chuyện của Trưởng lão Mahā Siva ghi trong chú giải. Hôm nay, tôi muốn kể lại câu chuyện ấy.


Trưởng lão Mahā Siva là bậc thầy của mười tám phái (sects). Ngài có thể đọc tụng làu làu toàn bộ Tam tạng và chú giải. Ngài dạy cả pháp học lẫn pháp hành. Sau khi được học từ nơi ngài, sáu mươi ngàn tỳ kheo trong số những đệ tử của ngài đã trở thành thánh A-la-hán.

Ngày nọ, một người đệ tử là bậc A-la-hán đi đến gặp ngài và thúc giục ngài nên hành thiền. Do sự nhắc nhở này, Trưởng lão Mahā Siva thức dậy một ý thức kinh cảm (saṁvega). Ngài nghĩ: ‘Nếu ta hành thiền ta có thể đắc A-la-hán thánh quả trong vòng vài ngày.’ Vì thế không báo cho một người đệ tử nào biết, ngài âm thầm đi đến một tu viện trong rừng, với ý định sẽ đắc A-la-hán thánh quả trước khi ngày an cư mùa mưa bắt đầu.

Khi mùa an cư (nhập hạ) đến, ngài vẫn chưa đắc A-la-hán thánh quả. Vì thế, với ý định sẽ đắc trước khi chấm dứt mùa an cư, ngài đã hành cật lực trong ba tháng. Tuy nhiên, ngài cũng không đắc A-la-hán thánh quả theo dự định. Do sự việc này, vào ngày trăng tròn cuối mùa an cư ấy, ngài đã khóc thật sầu thảm. Đó là một thọ khổ.

Rồi, với ý định sẽ đắc A-la-hán thánh quả trước khi chấm dứt mùa an cư năm tới, ngài tiếp tục thực hành thiền chỉ và thiền Minh Sát (Vipassanā). Nhưng khi thời  hạn ấn định đã qua ngài vẫn không đắc. Vì thế ngài lại khóc. Cứ như vậy, mỗi năm ngài mỗi khóc và ròng rã suốt ba mươi năm trường.

Vào ngày trăng tròn cuối mùa an cư thứ ba mươi, ngài lại khóc. Lần này, một vị chư thiên sống ở một cội cây gần con đường kinh hành của ngài cũng khóc theo. Vị Trưởng lão hỏi: ‘Ai đang khóc đó’ ‘Bạch ngài con là một vị chư thiên trú ngụ ở cây này.’ ‘Sao ngươi lại khóc?’ ‘Dạ, con nghĩ nếu con khóc, có thể con sẽ đắc thánh đạo và thánh quả,’ vị chư thiên trả lời. Lúc đó, vị Trưởng lão cảm thấy động tâm. Ngài tự nhủ: ‘Này Mahā Siva, ngay cả chư thiên cũng chế nhạo mi đó. Mi nên cố gắng hành thiền chỉ và thiền quán đi. Đừng có mà khóc nữa.’ Thế rồi ngài tập trung vào việc hành thiền miên mật suốt đêm ấy. Vừa lúc chấm dứt canh cuối, ngài trở thành một bậc A-la-hán.

Nếu phân tích câu chuyện này chúng ta thấy, lúc vị Trưởng lão khóc, đó là một khổ thọ. Khổ thọ này khởi lên dựa vào thiền chỉ và thiền minh sát. Bởi vì sức mạnh của thiền chỉ và thiền minh sát mà ngài hành không đủ để ngài đắc A-la-hán thánh quả và cứ cuối mỗi mùa an cư ngài đã khóc như vậy trong ba mươi năm. Mỗi lần ngài khóc, một khổ thọ bất thiện khởi lên nơi ngài. Mặc dù là bất thiện nhưng nó lại là nhân hỗ trợ mãnh liệt cho thiền chỉ và thiền minh sát. Nương vào khổ thọ ấy, ngài đã cố gắng hành thiền và thiền của ngài trở nên mạnh mẽ và đầy năng lực. Khi ngũ căn (ngũ quyền — tín, tấn, niệm, định và tuệ) của ngài thành thục và quân bình, ngài đắc bốn thánh đạo và bốn thánh quả theo tuần tự. Do đó, có loại khổ thọ này không phải là điều xấu.

Khi quý vị đang hành thiền, chẳng hạn như niệm hơi thở và thành công trong việc đắc bất cứ một thiền nào trong ba bậc thiền đầu (sơ thiền, nhị thiền, tam thiền), thọ lạc sẽ xuất hiện. Thọ lạc này là một loại xuất ly thọ, hay lạc thọ không thuộc vật chất. Quý vị nên tu tập nó, bởi vì nó là một nhân hỗ trợ mạnh mẽ cho thiền. Lại nữa, trong khi hành thiền minh sát, đặc biệt là ở giai đoạn Tuệ Sanh Diệt (trí quán sự sanh và diệt — udayabbayañāṇa), thọ lạc mãnh liệt có thể khởi lên. Thọ lạc đó là một lạc thọ không thuộc vật chất. Quý vị cũng nên tu tập nó.

Khi quý vị đạt đến tứ thiền hay bất cứ một thiền nào trong bốn thiền vô sắc, một bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất sẽ khởi lên. Quý vị nên tu tập thọ này, bởi vì nó là một nhân hỗ trợ mạnh mẽ cho các loại thiền chỉ khác và cho thiền minh sát.
Khi quý vị đạt đến Hành Xả Trí (saṅkhārupekkhā ñāṇa) trong thiền minh sát, một bất lạc bất khổ thọ không thuộc vật chất sẽ xuất hiện. Quý vị cũng nên tu tập thọ này, bởi vì Hành Xả Trí là nhân gần cho sự chứng đắc thánh đạo và thánh quả.

Trong khi đang hành quán thọ, quý vị phải phân biệt tất cả các loại thọ, dù chúng thuộc vật chất hay không thuộc vật chất, bởi vì tất cả chín loại thọ ấy đều là đối tượng của minh sát trí (vipassanā ñāṇa) cả.


Quý vị sẽ hành như thế nào? Hôm nay tôi sẽ giải thích phương pháp hành cho quý vị hiểu. Đức Thế Tôn đã trình bày chi tiết đề tài thiền phi sắc qua phương pháp quán thọ tiếp theo sau đề mục thiền hữu sắc (quán thân). Quý vị hãy lưu ý trình tự trong Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta): trước tiên Đức Phật dạy quán thân và đề cập chủ yếu việc phân biệt sắc. Sau khi phân biệt sắc Đức Phật dạy phân biệt danh. Tại sao? Bởi vì nếu quý vị tiến hành phân biệt danh mà không phân biệt sắc trước, điều đó sẽ rất khó. Với một chỉ thừa hành giả (samathayānjka), tức người lấy thiền chỉ làm cỗ xe, việc phân biệt các pháp thiền (jhāna dhammas) mà không phân biệt sắc sẽ không khó. Nhưng trong khi họ đang phân biệt các danh pháp dục giới, như các tiến trình tâm thuộc sáu môn, mà trước tiên không phân biệt sắc, thời họ sẽ không thể phân biệt được chúng một cách rõ ràng. Vì thế nếu quý vị muốn hành quán thọ, quý vị phải hành quán thân trước. Quý vị phải làm sao phân biệt được sắc chân đế đã.

Đề tài thiền có hai loại: đề tài thiền về sắc và đề tài thiền về danh, hay phi sắc. Hai loại đề tài thiền này cũng được nói đến như sự phân biệt danh và sắc.
Khi Đức Thế Tôn giảng giải một đề tài thiền về sắc, ngài giải thích thiền tứ đại theo hai cách: tóm tắt và chi tiết. Cách tóm tắt được đề cập trong Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta). Cách chi tiết được đề cập trong Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi (Mahāhatthipadopama Sutta), Kinh Giới Phân Biệt (Dhātuvibhaṅga Sutta), Đại Kinh Giáo Giới La Hầu La (Mahārāhulovāda Sutta), Vi Diệu Pháp Phân Tích (Abhidhamma Vibhaṅga). Và cả hai đều được nêu ra đầy đủ trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Quý vị có thể thực hành thiền phân biệt tứ đại theo cách tóm tắt hay chi tiết đều được. Nếu thực hành theo sự chỉ dẫn của Đức Phật, quý vị sẽ thấy sắc chân đế. Bằng không, thấy được các kalāpa và sắc chân đế sẽ là điều rất khó.

Tuy nhiên, khi giảng giải một đề tài thiền về danh, Đức Thế Tôn thường giảng giải nó qua việc quán thọ.
Có ba cách thực hành đề tài thiền phi sắc (danh): (1) qua ngõ xúc, (2) qua ngõ thọ và (3) qua ngõ tâm. Như thế nào? Đối với một số hành giả, khi vị ấy hành đề tài thiền về sắc, xúc khởi lên cùng với sự tiếp xúc của đối tượng vật chất trở nên rõ ràng. Đối với hành giả khác, thọ khởi lên cùng với sự cảm giác đối tượng vật chất trở nên rõ ràng. Trong khi với hành giả khác nữa, thức khởi lên cùng với sự hay biết về đối tượng vật chất trở nên rõ ràng.

Sau khi phân biệt sắc, nếu quý vị muốn phân biệt danh, quý vị sẽ thực hành như thế nào? Trước tiên, quý vị phải phân biệt các môn. Thế nào là các môn? Có sáu môn: nhãn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn và ý môn. Nếu quý vị cố gắng phân biệt danh mà không phân biệt sáu môn, quý vị sẽ không thấy được danh một cách rõ ràng. Vậy quý vị sẽ thực hành như thế nào để thấy sáu môn này? Quý vị phải hành thiền tứ đại theo cách tóm tắt hoặc chi tiết để thấy các tổng hợp sắc (kalāpa). Và khi phân tích các kalāpa ấy có thể quý vị sẽ phân biệt được sáu môn.

Sau đó, nếu quý vị muốn phân biệt, chẳng hạn như phân biệt các pháp sơ thiền của niệm hơi thở, quý vị phải nhập vào thiền đó. Xuất thiền, quý vị phải quán bhavaṅga (hữu phần), tức ý môn. Khi tợ tướng hơi thở (ānāpāna paṭibhāga nimitta) xuất hiện trong bhavaṅga  (hữu phần), quý vị có thể phân biệt năm thiền chi trước, bởi vì khi hành thiền chỉ quý vị đã phân biệt chúng được rồi. Tuy nhiên, trong trường hợp này quý vị phải quán chúng đang khởi lên nối tiếp nhau nhiều lần. Sau khi đã phân biệt được năm thiền chi, quý vị phải phân biệt các tâm hành còn lại. Tất cả có ba mươi bốn tâm hành trong sơ thiền. 

Khi xúc trở nên rõ ràng, thì không chỉ xúc khởi lên mà thọ, tưởng, tư và thức cũng khởi lên. Khi thọ trở nên rõ ràng, thì không chỉ thọ khởi lên mà xúc, tưởng, tư và thức cũng khởi lên. Khi thức trở nên rõ ràng, thì không chỉ thức khởi lên mà xúc, thọ, tưởng, tư cũng khởi lên vậy.

Vì thế, khi quý vị đang phân biệt danh, nếu xúc trở nên rõ ràng đối với minh sát trí (vipassanā ñāṇa) của quý vị, quý vị sẽ không chỉ phân biệt một mình xúc thôi mà cũng phải phân biệt các tâm hành phối hợp với nó, như thọ, tưởng, tư và thức nữa. Cũng vậy, khi đang phân biệt danh, nếu thức trở nên rõ ràng đối với minh sát trí của quý vị, quý vị sẽ không chỉ phân biệt một mình thức thôi, mà cũng còn phải phân biệt các tâm hành phối hợp với nó nữa.

Tuy nhiên, chú giải chỉ đề cập phassapañcamaka dhamma. Thế nào là phassapañcamaka dhamma? Đó là một nhóm năm pháp bắt đầu với xúc (phassa). Nhóm này bao gồm xúc (phassa), thọ (vedanā), tưởng (saññā), tư (cetanā), và thức (viññāṇa). Trong khi đó, phụ chú giải lại giải thích về ‘phassapañcamaka’ theo cách chi tiết như sau: trong số năm pháp này, thọ là thọ uẩn; tưởng là tưởng uẩn; xúc và tư là hành uẩn; thức là thức uẩn. Như vậy có bốn danh uẩn. Trước khi phân biệt danh, người hành thiền đã phải phân biệt sắc chân đế. Sắc chân đế là sắc uẩn. Cả thảy có năm thủ uẩn. Trong số năm thủ uẩn này, hành uẩn có năm mươi tâm hành (tâm sở). Trong năm mươi tâm hành ấy, xúc và tư là nổi bật. Khi các yếu tố nổi bật được đề cập, các tâm hành phối hợp còn lại của nhóm cũng đã được bao gồm. Tại sao? Khi Đức Phật giảng giải về hành uẩn trong Bộ Phân Tích, ngài chỉ nhấn mạnh đến tư (cetanā) thôi vậy.

Sau khi phân biệt phassapañcamaka vị tỳ-kheo suy xét như vầy: ‘Nương vào cái gì nhóm năm pháp này (phassapañcamaka) phát sanh? Và vị ấy hiểu như sau: ‘Nhóm năm pháp này khởi sanh do nương vào Vatthu (sắc vật).’

Vatthu là gì? Vatthu (vật) là thân nghiệp sanh (karaja kāya). Chú giải trích dẫn một đoạn từ Kinh Sa-Môn Quả (Sāmaññaphala Sutta) và Kinh Mahāsakuludāyī: ‘Thức này của ta nương vào thân nghiệp sanh (vật), bị trói buộc với thân nghiệp sanh (vật).’ Thế nào là thân nghiệp sanh? Thân nghiệp sanh, trong bản chất thực sự của nó, bao gồm tứ đại và các sắc chất phát sanh từ tứ đại. Các sắc chất này được gọi là sắc y đại sanh hay sở tạo sắc. Tất cả có hai mươi tám loại sắc. Đây là sự giải thích theo pháp môn kinh (Suttanta). Theo pháp môn này thì toàn bộ sắc tứ đại và sắc y đại sanh được gọi là Vatthu (vật) hay thân nghiệp sanh. Tại sao? Vì pháp môn kinh là nhằm tạo một sự hiểu biết thực tiễn. Ngược lại, pháp môn Vi-diệu-pháp giải thích ý nghĩa một cách chính xác hơn. Theo Vi-diệu-pháp (Abhidhamma), nhãn thức chỉ nương vào nhãn môn, hay nhãn tịnh sắc (cakkhupasāda) để khởi lên. Nhĩ thức chỉ nương vào nhĩ môn, tỷ thức chỉ nương vào tỷ môn, thiệt thức chỉ nương vào thiệt môn, thân thức chỉ nương vào thân môn để khởi lên. Ý thức giới (manoviññāṇadhātu) và ý thức (mano viññāṇa) khởi lên dựa vào ý vật. Như vậy thức tương ứng khởi lên chỉ nương vào vật tương ứng. Tuy nhiên, để phân biệt nhãn tịnh sắc (nhãn môn), nhằm có trí kiến thực tiễn, quý vị cũng phải phân biệt sắc đồng sanh của nó nữa, bởi vì nhãn tịnh sắc không thể sanh khởi một mình; mà nó sanh khởi như một tổng hợp sắc (kalāpas). Nếu quý vị phân tích tổng hợp sắc (kalāpa) này, quý vị có thể phân biệt được nhãn tịnh sắc một cách rõ ràng. Đối với các môn còn lại quý vị cũng cần phải hiểu theo cách này.

Trong một tổng hợp nhãn mười sắc (cakkhu-dasaka-kalāpa), có mười loại sắc. Địa đại, thuỷ đại, hoả đại, phong đại, là những yếu tố chính. Màu, mùi, vị, dưỡng chất, mạng căn và nhãn tịnh sắc là sắc phái sanh (sắc y đại sanh). Theo pháp môn kinh (Suttanta), cả mười sắc này được gọi là vật hay căn. Theo pháp môn Vi-diệu-pháp (Abhidhamma) thì chỉ nhãn tịnh sắc là nhãn căn, bởi vì nó là căn cứ duy nhất cho nhãn thức (khởi lên). Đối với các môn và thức còn lại quý vị cũng cần phải hiểu theo cách này.

Trong con mắt (nhãn cầu) của quý vị, không chỉ có những tổng hợp nhãn mười sắc (đoàn nhãn), mà cũng còn có các loại tổng hợp sắc (kalāpa) khác như tổng hợp thân mười sắc (đoàn thân), tổng hợp tánh mười sắc (đoàn tánh) nữa. Tổng cộng có năm mươi bốn loại sắc trong con mắt. Nếu quý vị kể luôn các tổng hợp mạng căn chín sắc (mạng căn cửu sắc) vào đó thời có sáu mươi ba loại sắc. Quý vị phải phân biệt tất cả những loại sắc này. Quý vị phải hiểu theo cách này đối với tất cả sáu môn.

Sáu loại tiến trình tâm là danh. Sắc trong sáu môn là sắc uẩn. Như vậy chỉ có  danh và sắc. Ở đây, vị tỳ-kheo thấy danh và sắc, vị ấy nghĩ: ‘Sắc là sắc uẩn, Danh là bốn danh uẩn.’ Cả thảy có năm uẩn. Không có năm uẩn tách biệt khỏi danh và sắc, cũng không có  danh & sắc tách biệt khỏi năm uẩn. Khi khám phá xem nhân của năm uẩn này là gì, vị tỳ-kheo thấy rằng chúng là do vô minh, ái, thủ, hành và nghiệp tác thành. Từ đó trở đi vị tỳ-kheo sống với trí hiểu biết ấy, nghĩ rằng năm uẩn chỉ là những gì do duyên hợp và được kể trong những gì được tạo ra từ nhân duyên. Thực sự, nó chỉ là một đống các hành, một đống các tiến trình thần tuý. Vị ấy phân biệt sắc và danh cùng với các nhân và duyên của chúng là vô thường, khổ và vô ngã.

Sau khi có được thời tiết thích hợp, một bậc thầy hướng dẫn tâm linh thích hợp, thức ăn thích hợp và pháp thích hợp, vị tỳ-kheo mong muốn chứng ngộ đạt đến đỉnh cao của minh sát (vipassanā) và đắc A-la-hán thánh quả. Với ba loại, đó là qua ngã xúc, thọ và thức, đề tài thiền đưa đến A-la-hán thánh quả được giảng giải theo cách này.

Thời tiết thích hợp rất quan trọng. Nếu thời tiết quá nóng hay quá lạnh, sẽ không dễ gì cho quý vị giữ vững được sự tập trung. Một bậc thầy hướng dẫn tâm linh thích hợp cũng rất quan trọng. Nếu người thầy bị lầm lạc, đệ tử sẽ bị lầm lạc; nếu người thầy chỉ đúng chánh đạo, đệ tử sẽ theo đúng chánh đạo. Thức ăn thích hợp cũng quan trọng không kém trong thiền. Pháp thích hợp có nghĩa là thỉnh thoảng quý vị nên nghe Pháp về Tứ Thánh Đế. Việc nghe này cũng rất quan trọng. Sau khi đã có được bốn điều thích hợp này, nếu quý vị nỗ lực thực hành để phân biệt các hành là vô thường, khổ và vô ngã, và khi minh sát trí (vipassanā ñāṇa) của quý vị trở nên thành thục, quý vị có thể đắc các thánh đạo và thánh quả.

Để phân biệt sắc chân đế, có hai cách, đó là thiền tứ đại theo cách tóm tắt và theo cách chi tiết. Còn để phân biệt danh chân đế, có ba cách, đó là qua ngã xúc, qua ngã thọ và qua ngã thức.
Nếu quý vị phân biệt danh chân đế qua ngã thọ, quý vị không chỉ phân biệt một mình thọ thôi, mà phải phân biệt các tâm hành phối hợp với nó nữa. Đây là quán thọ (vedanānupassanā). Nếu quý vị phân biệt thức trước, quý vị cũng không chỉ phân biệt một mình thức, mà phải phân biệt các tâm hành phối hợp với nó. Đây là quán tâm (cittanupassanā). Và nếu quý vị phân biệt xúc trước, quý vị không chỉ phân biệt một mình xúc mà cũng phải phân biệt các tâm hành phối hợp với nó. Đây là quán pháp (dhammānupassanā). Như vậy, kể cả quán thân (kāyānupassanā), pháp quán mà quý vị phải phân biệt trước, tổng cộng có bốn loại quán.

Tuy nhiên ở đây, khi Đức Thế Tôn nói về đề tài thiền quán danh, ngài thường nói về thọ. Đức Phật ít khi giải thích xúc hay thức, vì những đề tài thiền này thường không rõ ràng đối với một số hành giả, mà chỉ nói về thọ. Tại sao? Bởi vì sự sanh khởi của thọ rất rõ. Thực sự là vậy, sự sanh khởi của thọ lạc hay thọ khổ luôn rõ ràng. Khi thọ lạc sanh và lan toả khắp toàn thân, nó khiến người ta phải la lên: ‘Ôi, hạnh phúc làm sao!’ Nó giống như ăn bơ tươi được làm mát trong nước lạnh một trăm lần sau khi đã làm cho tan chảy đi tan chảy lại một trăm lần vậy. Hay giống như được mát-xa với loại dầu êm dịu đáng giá cả trăm đồng. Hay giống như đang nóng sốt được làm mát với một ngàn thùng nước lạnh vậy.

Khi thọ khổ sanh và lan ra khắp toàn thân, nó làm cho người ta phải rên rỉ: ‘Ôi, sao mà đau đớn quá!’ Nó chẳng khác gì đem áp một lưỡi cày nóng bỏng lên thân. Hay như bị tưới nước đồng sôi vào người. Và nó cũng giống như phóng những bó bùi nhùi đang cháy vào đám cỏ hay cây khô trong rừng vậy.
Trong khi sự sanh khởi của thọ lạc và thọ khổ rõ ràng như vậy, thì sự sanh khởi của bất khổ bất lạc thọ lại lờ mờ và không rõ.

Bất khổ bất lạc thọ chỉ trở nên rõ ràng với một người nắm bắt nó đúng phương pháp. Vị ấy nghĩ: ‘thọ trung tính hay bất khổ bất lạc thọ khởi lên vào lúc biến mất của lạc và khổ, theo cách tương phản với sự dễ chịu và khó chịu vậy’.

Nó được so sánh với cái gì? Một người thợ săn đang lần theo những dấu chân của một con nai mà thoắt cái đã leo lên một tảng đá bàn mất dấu. Người thợ sắn thấy những dấu chân ở cả hai bên tảng đá, không thấy bất kỳ dấu vết nào ở giữa (tảng đá). Nhờ suy luận ông ta hiểu: ‘Chỗ này con vật leo lên, và chỗ này con vật leo xuống. Ở giữa, trên mặt đá bằng, nó đi qua phần này.’

Giống như những dấu chân ở chỗ leo lên được thấy rõ như thế nào, sự sanh khởi của thọ lạc cũng trở nên rõ ràng như vậy. Giống như những dấu chân ở chỗ đi xuống được thấy rõ như thế nào, sự sanh khởi của thọ khổ cũng trở nên rõ ràng như vậy. Giống như sự nắm bắt nhờ suy luận phần con nai vượt qua tảng đá như thế nào, sự hiểu biết bất khổ bất lạc thọ thoáng qua một cách có phương pháp cũng như vậy. Vị ấy nghĩ: ‘Thọ trung tính, bất khổ bất lạc thọ khởi lên vào lúc biến mất của thọ lạc và thọ khổ, theo cách tương phản với sự dễ chịu và khó chịu.’

Theo cách này, Đức Thế Tôn trước tiên giảng giải đề mục thiền về sắc, và sau đó chỉ rõ đề mục thiền về danh theo cách quán thọ. Ngài rút thọ ra khỏi năm uẩn.

Thực ra không chỉ ở đây Đức Thế Tôn mới chỉ rõ điều này. Trong các bản Kinh như Cūla Taṇhāsaṅkhaya Sutta (Tiểu Kinh Ái Đoạn Tận), Cūla Vedalla Sutta (Tiểu Kinh Phương Quảng), Mahā Vedalla Sutta (Đại Kinh Phương Quảng), Raṭṭhapāla Sutta (Kinh Raṭṭhapāla), Māgandiya Sutta, Dhātuvibhaṅga Sutta (Kinh Giới Phân Biệt) vā Āneñjasappāya Sutta (Kinh Bất Động Lợi Ích) của Trung Bộ Kinh (Majjhimā Nikāya); và trong Mahā Nidāna Sutta (Kinh Đại Duyên), Sakkapañhā Sutta (Kinh Đế Thích Vấn Đạo) của Trường Bộ Kinh (Dīgha Nikāya); trong Cūla Nidāna Sutta, Rukkhūpama SuttaParivīmaṁsana Sutta của Tương Ưng Bộ Kinh (Saṁyutta Nikāya); và có thể nói trong toàn bộ phần Tương Ưng Thọ (Vedanā Saṁyutta) của Tương Ưng Bộ và trong nhiều bài Kinh khác Đức Phật đã chỉ rõ đề tài thiền về danh theo cách quán thọ. Ngài rút thọ khỏi năm uẩn sau khi đã giảng giải đề tài thiền về sắc trước.

Có một cách hiểu khác về nhóm từ, ‘Ta cảm giác một thọ lạc.’ Do sự vắng mặt của thọ khổ vào lúc (có) thọ lạc, vị ấy tuệ tri: ‘Ta đang cảm giác một thọ lạc.’ Nhờ biết việc cảm giác một thọ lạc là do sự vắng mặt của thọ khổ ngay lúc đó và do sự vắng mặt của thọ lạc trước lúc hiện tại vị ấy hiểu thọ là vô thường. Nó được gọi là một pháp không tồn tại lâu dài và luôn thay đổi. Khi vị ấy tuệ tri thọ lạc như vậy, vị ấy đã hiểu thọ lạc một cách rõ ràng.

Chú giải trích dẫn một đoạn từ Kinh Trường Trảo (Dīghanakha Sutta), bài Kinh thứ bảy mươi bốn của Trung Bộ Kinh (Majjhimā Nikāya). Vì sao bài kinh này được gọi là Kinh Trường Trảo (Dīghanakha Sutta)? Bởi vì Đức Phật dạy bài kinh đó cho du sĩ ngoại đạo Dīghanakha, một người cháu của Tôn giả Xá Lợi Phất. Vì sao ông ta lại được gọi là Trường Trảo? Có lẽ là vì ông có những cái móng tay dài. Tuy nhiên tên tộc của ông là Aggivessana. Trong bài kinh này, trước hết Đức Phật giảng giải thiền tứ đại theo cách tóm tắt. Sau đó, Đức Phật giảng giải đề tài thiền về danh, bắt đầu từ việc phân biệt thọ. Có lẽ vì lý do đó mà bài kinh cũng còn được gọi là Vedanāpariggaha Sutta (Kinh Phân Biệt Thọ).


Trong mùa an cư đầu tiên của Đức Phật chúng ta, ngài đã dạy thiền cho nhiều vị tỳ-kheo và từ đó sáu mươi vị A-la-hán đã xuất hiện. Sau mùa an cư, Đức Phật đến thăm khu rừng Uruvelā (Ưu lâu tần loa), nơi đây ngài từng hành khổ hạnh suốt sáu năm trước khi giác ngộ. Tại đây Đức Phật đã dạy đạo cho Ưu lâu tần loa Ca Diếp (Uruvelākassapa), Già da Ca Diếp (Gayākassapa), Na đề Ca Diếp (Nadīkassapa) và một ngàn đệ tử của họ. Tất cả đều trở thành các bậc A-la-hán. Cùng đi với các vị A-la-hán ấy, Đức Phật đến viếng thăm Rājagaha (Vương Xá) theo lời mời của đức Vua Tần bà sa la (Bimbisāra).

Vào lúc đó, Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vẫn còn là những du sĩ ngoại đạo. Cả hai đang thực hành dưới sự hướng dẫn của Sañjayabelaṭṭhiputta. Hai tuần lễ sau khi Đức Phật đến Vương Xá, một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất gặp Tôn giả A Sà Chí (Assaji), người được xem là trẻ tuổi nhất trong nhóm năm vị tỳ-kheo đầu tiên (tức nhóm Kiều Trần Như). Tôn giả Xá Lợi Phất đã lắng nghe một bài kệ bốn câu nói về Tứ Thánh Đế từ nơi ngài Assaji: ‘Các pháp phát sinh do nhân, nhân ấy Như Lai đã nói. Và làm thế nào pháp ấy diệt, điều này bậc Đại Sa Môn cũng đã nói.’ Sau khi nghe được hai vần kệ đầu, Tôn giả Xá Lợi Phất trở thành một bậc thánh nhập lưu. Trở về nơi trú ngụ của mình, Tôn giả lập lại bài kệ ấy cho Tôn giả Mục Kiền Liên. Sau khi nghe xong bài kệ, Tôn giả Mục Kiền Liên cũng trở thành một bậc Nhập lưu nữa. Cả hai cùng với hai trăm năm chục người đệ tử của mình đi đến Trúc Lâm Tịnh xá (Veḷuvana Vihāra) nơi đây Đức Phật lúc đó đang trú ngụ. Tất cả mọi người trong nhóm đều trở thành ‘Thiện Lai Tỳ Kheo’ (ehi bhikkhus). Dịp này Đức Phật cũng đã dạy giáo lý Tứ thánh Đế cho họ. Sau khi nghe xong bài Pháp, hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo đệ tử trở thành các bậc A-la-hán. Tuy nhiên Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên vẫn chưa đắc A-la-hán thánh quả lúc đó.


Một tuần lễ sau khi thọ giới, Tôn giả Mục Kiền Liên đắc A-la-hán thánh quả. Tôn giả Xá Lợi Phất cũng hành minh sát (vipassanā) nhưng không đắc mãi cho tới nửa tháng sau. Tôn giả đã hành như thế nào? Tôn giả chú trọng đến anupadadhamma vipassanā (Minh sát bất đoạn pháp), tức quán  danh & sắc chân đế là vô thường, khổ và vô ngã theo tuần tự từng pháp một. Chẳng hạn, ngài nhập sơ thiền. Trong sơ thiền có ba mươi bốn tâm hành, ngoại trừ sơ thiền tâm bi và tâm hỷ, ở đây mỗi thiền chứng có ba mươi lăm tâm hành. Xuất khỏi sơ thiền, ngài phân biệt ba mươi bốn tâm hành trong sơ thiền theo tuần tự từng tâm hành một. Ngài quán thức là vô thường, rồi quán xúc là vô thường, rồi quán thọ là vô thường,…Trong lúc quán như vậy, ngài thấy rõ các giai đoạn sanh, trú, và diệt của mỗi tâm hành.

Chú giải giải thích lý do tại sao Tôn giả Xá Lợi Phất có thể phân biệt được các hành một cách rõ ràng như sau: ‘Bởi vì ngài đã phân biệt danh cùng với căn (môn) và đối tượng của nó.’ Chẳng hạn, nếu ngài muốn phân biệt các pháp thiền hơi thở (ānāpāna jhāna dhammas), sau khi xuất khỏi sơ thiền, trước tiên ngài phân biệt bhavaṅga (hữu phần), ý môn. Rồi ngài phân biệt tợ tướng hơi thở (ānāpāna paṭibhāga nimitta). Khi ānāpāna paṭibhāga nimitta xuất hiện trong ý môn, ngài mới bắt đầu phân biệt các pháp sơ thiền theo tuần tự từng pháp một là vô thường, khổ và vô ngã. Theo cách này, Tôn giả Xá Lợi Phất đã quán từ sơ thiền đến vô sở hữu xứ thiền (bậc thiền thứ ba của bốn thiền vô sắc). Tuy nhiên, khi phân biệt các pháp thiền của phi tưởng phi phi tưởng xứ ngài không thể phân biệt chúng theo tuần tự được, bởi vì các pháp trong đó rất vi tế. Ngài chỉ quán chúng như một nhóm kể như vô thường, khổ và vô ngã.

Ngài đã hành thiền chỉ quán miên mật như vậy suốt nửa tháng. Rồi dần dần ngũ quyền (năm căn tinh thần— tín, tấn, niệm, định và tuệ) của ngài trở nên thuần thục. Tại sao? Bởi vì ngài đã có đủ Ba-la-mật (pāramī). Ngài đã nhận được lời thọ ký xác định sẽ trở thành một vị thượng thủ đệ tử của Đức Phật chúng ta từ nơi Đức Phật Anomadassī một A-tăng-kỳ (asaṅkheyya) và một trăm ngàn đại kiếp trước. Trước khi Đức Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian, Tôn giả Xá Lợi Phất cũng đã thực hành thiền chỉ và thiền minh sát (vipassanā) trong giáo pháp của các vị Phật trước để nhận được lời thọ ký xác định sẽ trở thành một bậc thượng thủ đệ tử trong tương lai. Sau khi nhận được lời thọ ký, trong một A-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, ngài cũng đã hành thiền chỉ và minh sát (vipassanā) cho đến mức có thể, và đắc tới hành xả trí.

Làm sao chúng ta biết được điều này? Bởi vì ngài đã đắc A-la-hán thánh quả cùng với tứ tuệ phân tích. Với một người đắc được như vậy, chắc hẳn họ đã có đủ bốn nhân trong giáo pháp của Đức Phật trước. Trong số bốn nhân này có một nhân gọi là tiền nỗ lực (pubbayoga), có nghĩa là họ phải hành thiền minh sát (vipassanā) lên đến hành xả trí. Vì thế, Tôn giả Xá Lợi Phất không những đã hành trong kiếp đó, mà ngài cũng còn hành trong giáo pháp của các vị Phật trước nữa. Chúng ta không nên quên các ba-la-mật quá khứ ấy. Trong kiếp cuối cũng vậy, ngài đã hành thiền chỉ và thiền minh sát lên đến hành xả trí trở lại. Một hôm, vào ngày rằm tháng Hai, nửa tháng sau ngày thọ giới, ngũ quyền của ngài trở nên thành thục.

Ngày hôm ấy, sau bữa thọ trai, Đức Phật đi cùng với Tôn giả Xá Lợi Phất đến hang Sūkarakhata nằm dưới chân núi Gijjhakūṭa. Ngay khi Đức Phật và Tôn giả vừa vào ngồi trong hang, du sĩ Dīghanakha đi đến. Ông hỏi Đức Phật một câu hỏi về đoạn kiến, một loại tà kiến ông đang chấp. Sau khi Đức Phật loại trừ đoạn kiến cho ông xong, ngài dạy cho ông bài Kinh Phân Biệt Thọ (Vedanāpariggaha Sutta). Trước tiên Đức Phật giảng giải pháp hành thiền quán sắc theo cách tóm tắt. Kế đến Đức Phật giảng giải về quán thọ.

Chú giải trích dẫn một đoạn nói về quán thọ từ bài kinh ấy như sau:
‘Này Aggivessana, khi một người cảm giác một lạc thọ, họ không cảm giác  khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Họ chỉ cảm giác lạc thọ trong khi ấy. Khi một người cảm giác một khổ thọ, này Aggivessana, thời họ không cảm giác lạc thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Họ chỉ cảm giác khổ thọ trong khi ấy. Khi một người cảm giác một bất khổ bất lạc thọ, thời họ không cảm giác lạc thọ hay khổ thọ. Họ chỉ cảm giác bất khổ bất lạc thọ trong khi ấy.’

Tại sao? Trong một sát na tâm, hai thức không thể sanh cùng nhau. Cũng vậy, hai loại thọ, hai loại xúc, tư, tưởng…không thể sanh cùng nhau. Trong một sát na tâm, chỉ một loại thọ, xúc, tưởng, tư, …sanh mà thôi. Do điều này, khi một thọ lạc có mặt, thọ khổ hay thọ bất khổ bất lạc không thể sanh. Tương tự như vậy, trong một sát na tâm, khi một thọ khổ sanh, thọ lạc hay thọ bất khổ bất lạc không thể sanh. Khi một bất khổ bất lạc thọ sanh, thời thọ lạc hay thọ khổ cũng không thể sanh trong lúc đó.

Trong khi Đức Phật đang giảng giải pháp quán thọ, cả Tôn giả Xá Lợi Phất lẫn Dīghanakha đều hiểu bài pháp ấy rất rõ. Làm thế nào họ có thể hiểu được? Trước khi dạy quán thọ, Đức Phật đã giảng giải về thiền quán sắc trước. Vào lúc đó, hai vị đã có thể phân biệt sắc chân đế một cách rõ ràng. Hơn nữa, khi Đức Phật giảng giải về quán thọ, các vị cũng đã có thể phân biệt được các cảm thọ cùng với các tâm hành phối hợp của chúng. Sao họ có thể hiểu được dễ dàng như vậy? Bởi vì Tôn giả Xá Lợi Phất đã từng hành thiền chỉ và thiền minh sát (vipassanā) trong các kiếp sống trước và cả trong kiếp đó nữa.

Ngài đã đạt đến nhập lưu thánh đạo và nhập lưu thánh quả. Vì vậy ngài hiểu rằng một cảm thọ không thể nào sanh một mình mà phải sanh cùng với các tâm hành phối hợp của nó. Cháu ngài, Dīghanakha, cũng có đủ ba la mật để hiểu Pháp, bởi vì ông thuộc hạng người quảng khai trí giả (vipañcittaññū), tức người có thể chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna) chỉ do nghe một bài pháp đầy đủ, ở đây là Kinh Trường Trảo (Dīghanakha Sutta). Đó là lý do vì sao họ có thể hiểu được bài giảng Pháp của Đức Phật.

Rồi Đức Phật tiếp tục bài Pháp: ‘Thọ lạc, này Aggivessana, là một pháp vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị huỷ hoại, bị suy tàn, bị tiêu diệt.’
Ở đây, khi Đức Phật dạy rằng thọ lạc là vô thường, chúng ta phải quán nó là vô thường, khổ và vô ngã. Và khi Đức Phật dạy thọ lạc là hữu vi, do duyên sanh, ngài muốn dạy tập khởi của thọ, nói cách khác, tập khởi của khổ. Vào lúc đó, các vị có thể phân biệt duyên khởi và rồi quán danh sắc cùng với các nhân chủa chúng là vô thường, khổ và vô ngã.

Kế, Đức Phật tiếp tục bài Pháp: ‘Thọ khổ, này Aggivessana, là một pháp vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị huỷ hoại, bị suy tàn, bị tiêu diệt. Thọ bất khổ bất lạc, này Aggivessana, là một pháp vô thường, hữu vi, do duyên sanh, bị đoạn diệt, bị huỷ hoại, bị suy tàn, bị tiêu diệt.
Thấy như vậy, này Aggivessana, vị đa văn thánh đệ tử xoay lưng (yểm ly) với thọ lạc cũng như vị ấy xoay lưng với thọ khổ và thọ bất khổ bất lạc. Do xoay lưng (yểm ly), vị ấy không có tham dục. Do không có tham dục, vị ấy được giải thoát. Khi đã giải thoát, vị ấy biết rõ như vầy: ‘Ta đã được giải thoát khỏi tham ái. Với ta sanh đã tận. Với ta Đời Phạm Hạnh đã được hoàn thành. Với ta việc cần phải làm đã làm xong. Không còn tái sanh lại nữa.’

Cuối bài pháp, Dīghanakha trở thành một vị nhập lưu và Tôn giả Xá Lợi Phất trở thành một vị A-la-hán. Chú giải đề cập rằng (việc đắc thánh quả của) Tôn giả Xá Lợi Phất giống như ăn phần ăn dọn cho người khác vậy, bởi vì ngài đắc A-la-hán thánh quả trong lúc đang nghe bài Pháp dạy cho Dīghanakha.

Quý vị có thể nghĩ rằng việc đắc A-la-hán thánh quả sao mà dễ thế. Nhưng quý vị đừng nên nghĩ như vậy. Bởi vì Tôn giả Xá Lợi Phất đã hoàn thành các ba la mật của ngài trong hơn một A-tăng-kỳ (Asaṅkheyya) và một trăm ngàn đại kiếp. Hơn nữa, trong kiếp đó ngài cũng đã hành thiền chỉ và thiền Minh Sát miên mật suốt nửa tháng sau khi xuất gia cho đến khi minh sát trí và ngũ quyền của ngài trở nên thành thục. Đức Phật biết rằng ngày hôm đó Tôn giả Xá Lợi Phất sẽ đạt đến A-la-hán thánh quả, vì thế mà ngài đã cùng đi với tôn giả đến hang Sūkarakhata để giảng giải bài Kinh Trường Trảo này.

Đến đây có lẽ quý vị đã hiểu rằng trước tiên quý vị phải phân biệt sắc chân đế. Sau đó quý vị phải phân biệt danh chân đế bắt đầu với thọ. Quý vị cũng phải phân biệt các tiến trình tâm thuộc sáu môn. Trong những tiến trình tâm sáu môn ấy có những tốc hành tâm thiện và tốc hành tâm bất thiện. Quý vị phải phân biệt cả hai loại tốc hành tâm này.

Sau khi đã phân biệt danh và sắc chân đế, quý vị sẽ tiếp tục hành như thế nào? Đức Phật dạy:
‘Như vậy vị ấy sống quán thọ như nội thọ, hay vị ấy sống quán thọ như ngoại thọ, hay vị ấy sống quán thọ như nội và ngoại thọ.’
Trong trường hợp này, quý vị phải phân biệt danh và sắc chân đế cả bên trong (tự thân) lẫn bên ngoài, nhấn mạnh đến thọ. Rồi đến giai đoạn kế tiếp:
‘Vị ấy sống quán hiện tượng sanh trong các thọ, hay vị ấy sống quán hiện tượng diệt trong các thọ, hay vị ấy sống quán hiện tượng sanh và hiện tượng diệt trong các thọ.’

Ở giai đoạn này, quý vị phải phân biệt sự sanh và diệt theo nhân duyên và trong sát na. Khi quý vị đang phân biệt sự sanh và diệt theo nhân duyên, quý vị phải phân biệt năm nhân quá khứ ­- vô minh (avijjā), ái (taṇhā), thủ (upādāna), hành (saṅkhāra) và nghiệp (kamma). Cũng có các nhân hiện tại cho sắc uẩn. Ở một phần trước tôi đã đề cập điều này nhưng chỉ một cách tóm tắt vì có rất nhiều sắc phải được nói đến. Hôm nay tôi muốn giải thích thêm một ít về các nhân hiện tại cho sắc. Chúng ta biết năm nhân quá khứ chỉ dành cho sắc nghiệp (sắc do nghiệp sanh).

Với sắc do tâm sanh thì thức là nhân. Với sắc do thời tiết sanh, hoả đại trong một tổng hợp sắc (kalāpa) trước là nhân. Với sắc do vật thực sanh, dưỡng chất trong tổng hợp sắc trước là nhân. Có hai loại danh uẩn, danh uẩn quả (resultant mental aggregates) và danh uẩn phi quả (non-resultant mental aggregates). Các danh uẩn phi quả bao gồm các pháp thiện, bất thiện và duy tác. Với các uẩn quả, năm nhân quá khứ, đó là vô minh (avijjā), ái (taṇhā), thủ (upādāna), hành (saṅkhāra) và nghiệp (kamma), là nhân. Cũng có các nhân trong hiện tại, gọi là các nhân gần. Các danh uẩn không thể sanh mà không có một căn (môn), vì thế căn cũng là một nhân.

Các danh uẩn không thể sanh mà không có một đối tượng, như vậy đối tượng cũng là một nhân. Các danh uẩn không thể sanh mà không có xúc, vì vậy xúc cũng là một nhân. Các danh uẩn không thể sanh mà không có sự tác ý, như vậy tác ý cũng là một nhân. Và tuỳ theo từng tình huống, có thể có các nhân khác nữa. Vì thế đối với các danh uẩn quả, quý vị phải phân biệt năm nhân quá khứ và các nhân hiện tại. Còn với các danh uẩn phi quả, quý vị không cần phân biệt các nhân quá khứ mà chỉ cần phân biệt các nhân hiện tại. Ở giai đoạn này, quý vị phải biết rằng do các nhân sanh, năm thủ uẩn sanh.

Do sự diệt hoàn toàn của các nhân, năm uẩn diệt hoàn toàn. Quý vị cần phải biết sự sanh và diệt theo nhân duyên này. Kế đến quý vị cũng phải phân biệt để thấy rằng ngay khi năm thủ uẩn và các nhân của chúng sanh chúng liền diệt. Đây là sự sanh và diệt trong sát na. Quý vị phải phân biệt hai loại sanh và diệt nói trên. Rồi đến giai đoạn kế:
‘Hay chánh niệm rằng: “có thân đây” được thiết lập nơi vị ấy chỉ đến mức cần thiết cho chánh trí và chánh niệm mà thôi.’

Giai đoạn này bao gồm các mức độ minh sát trí cao hơn từ Hoại Diệt Trí (Bhaṅga Ñāṇa)  đến Hành Xả Trí (saṅkhārupekkhā ñāṇa). Và đến giai đoạn:
‘Vị ấy sống không nương tựa, không chấp giữ bất cứ điều gì trong thế gian. Này các tỳ-kheo, đây là cách một vị tỳ-kheo sống quán thọ là thọ.’

Nếu quý vị quán năm thủ uẩn, nhấn mạnh thọ, một cách hệ thống, và khi minh sát trí của quý vị trở nên thành thục, quý vị sẽ đạt đến các thánh đạo. Lúc đó, các thánh đạo ấy sẽ huỷ diệt các phiền nào theo tuần tự từng giai đoạn. Nếu quý vị đạt đến A-la-hán thán quả, quý vị sẽ sống không nương tựa, không còn chấp trước điều gì trong thế gian của năm uẩn này nữa.


Đại Niệm Xứ Tường Giải
(Mahāsatipaṭṭhāna Sutta)
Tôn Giả Āciṇṇa, Dhammācariya – Pháp Sư
Aggamahākammaṭṭhānācariya – Đại Trưởng Lão Thiền Sư
Trưởng Ban Thiền Sư và Cố Vấn Thiền.