Tiếng Dharma hay Dhamma
trong cả Sankrit và Pàli đều có nhiều nghĩa: Chân lý, thiên nhiên, giáo điều,
qui phạm... Nói chung, nếu cần nó cũng hàm nghĩa ám chỉ cho vạn vật, vạn sự --
bất luận tâm lý hay sinh vật lý trong thế giới hiện tượng này. Nhưng bên cạnh
đó, từ Dhamma còn có một nghĩa khác là Giáo lý mà mà nếu đọc thấy trong kinh
Phật đôi khi ta cũng nên hiểu rằng đó chính là Phật Pháp. Vậy, gom hết tất cả
các định nghĩa lại, ta sẽ hiểu được thuật ngữ "thực hành Giáo
Pháp"một cách sâu rộng hơn, rằng đó là con đường thấu đáo từng phút giây
vận động, tồn tại của tất cả cảm nghiệm và chính mình sống trọn vẹn với thực
tại một cách hài hòa, bao dung hiểu theo mọi nghĩa.
Mỗi người chúng ta là
một ảnh trường với muôn nghìn hình sắc sai biệt luôn đổi thay bất tuyệt không
có gì khả dĩ bám víu, ôm ấp. Ðể nhận diện được bản chất của chính mình vốn chỉ
là từng công đoạn trong chuổi dài tồn tại đó, chúng ta phải tự có một thái độ
tự tại và hiểu biết về từng khoảnh khắc thực tại đang trôi qua. Ðiều đó đòi hỏi
ở chúng ta một khả năng trí tuệ và thực nghiệm hết sức tế nhị qua những chặng
đường, cấp độ khác nhau. Ðồng ta cũng phải học được cách phơi mở và buông thả
tư tưởng mình trước mọi cảm nghiệm về thực tại một cách thông suốt.
Một trong những tiêu
điểm của vấn đề thực hành Giáo Pháp là hiểu được căn cội của cái gọi là tinh
thần phân biệt: Nó đã được hình thành ra sao? Và tại sao con người ta cứ có
khuynh hướng đi tìm những ranh giới trong vạn sự để tự nhốt tù mình trong đó
một cách dại khờ. Trong một tác phẩm của mình, quyển "Phóng ảnh của ý
thức" (The Spectrum of Consciousness), Ken Wilber đã tổng hợp tất cả những
cái gọi là Trí tuệ để mô tả một cách rõ ràng về tinh thần phân biệt, hành trình
dẫn tới chính nó. Ken Wilber đã phác họa bốn giai đoạn ý thức của con người từ
trình độ tỉnh thức vô phân biệt đến đến một cảnh giới nội tâm tù túng tự cách
ngăn.
Tinh thần phân biệt của
chúng ta trước hết nhắm vào vấn đề xác định tự ngã: kỷ tha, năng sở, trong
ngoài. Ngay trong chính ý thức ngộ nhận đầu tiên này, coi như chúng ta tự tách
rời chính mình ra khỏi môi trường hiện hữu, xẻ đôi thực tại với cảm nghiệm. Gọi
theo Beroit thì tinh thần đó là một "lổ hổng trên mặt phẳng tuyệt đối của
vũ trụ". Từ các thực ngã ngộ nhận này, tinh thần phân biệt tiếp theo được
nảy sinh. Ðó là trình tự ngã chấp về một linh hồn trong trong hình hài cát bụi
này. Bước đi của nó dẫn tới thái độ khu biệt cái cảm nhận với cái được cảm nhận
trong mọi hình thái ý thức. Nó buộc người ta nghĩ tới một cái Tôi độc lập mà
mình sẵn sàng chấp nhận là có thật.
Tinh thần phân biệt thứ
ba được kế thừa từ tinh thần thứ hai vừa nêu. Nó là sự chấp và ý thức để có
được một thực thể cùng phóng ảnh của nó. Cái thực thể đó chính là tất cả những
hiện tượng ý thức đan xen vào nhau để tạo ra cái Tôi ảo ảnh của mỗi người,
những hình thái ý thức mà chúng ta cứ muốn gom lại thành một. Và bất cứ những
gì tăm tối, bất toại của ý thức mà chúng ta vẫn cố tình trốn chạy, chối bỏ sẽ
tự nhiên trở thành một phóng ảnh đe dọa, một ám ảnh thì đúng hơn, cho chính
chúng ta. Càng cố gắng trấn áp, chúng ta chỉ hoài công thêm thôi. Bởi lúc này
chúng ta đã là một cái bóng theo sát mỗi người. Chúng ta bất lực vì không nhận
ra được nó, không chịu nhìn ngắn nó để rồi trở nên bối rối và rơi vào thế bị
động.
Dưới áp lực của một ý
thức mù mịt, vô minh như vậy, chúng ta coi như đã tự giam cầm và giới hạn khả
năng cảm nghiệm trung thực của mình về bản thân bằng một sự tỉnh thức khách
quan đối với thực tại mà hàng loạt ngộ nhận đã nối nhau bóp méo qua tinh thần
phân biệt.
Trước hết, chúng ta đã
chia cắt thân tâm mình ra khỏi môi trường hiện hữu và tự qui định cho mình một
thế giới chật hẹp bằng sự cố tình đồng nhất với mọi cảm quan. Tình trạng càng
tệ hại hơn nữa khi ta đồng hóa bản thân với một linh hồn thực thể nào đó để tri
nhận thực tại, tất cả những gì đang xảy đến trước mắt mình. Cuối cùng rồi,
chính ý thức chỉ còn là những mãnh vụn của những gì chúng ta tự nghĩ ra để đồng
hóa chính mình bởi chúng thực ra chỉ là từng ảo ảnh về một cái Tôi đồng thời
cũng là cái mà chúng ta muốn chối bỏ, bởi chúng hoàn toàn không đáp ứng được
điều chúng ta muốn: Chúng không hề là một cái Tôi nào để ta toại nguyện cả. Và
cứ thế, ở từng hình thái ngộ nhận, chúng ta ngày càng tự giới hạn không gian
tâm tưởng của chính mình, làm nó đổ nát thê thảm hơn.
Lý tưởng của cuộc tu
thiền định chính là nhắm tới sự giàn xếp những ý thức phân biệt đó để ta hiểu
rõ được chính mình một cách như thật. Ðiều đó không có nghĩa là chúng ta lao
mình vào đập phá một cái Tôi nào hết mà vấn đề còn đi xa hơn, chín chắn hơn,
tức là tìm tới một sự nhận thức trọn vẹn và tự do về mỗi mỗi tình trạng ý thức.
Bởi ngay cả khi chúng ta có biết tới sự tồn tại của các nguyên tử, ta cũng vẫn
cứ thích chấp nhận khái niệm về một cái ghế, cái bàn hơn. Nhưng dẩu sao thì sự
nhận biết đó, cái kiến thức khoa học đó, vẫn giúp ta có được những trợ lực căn
bản và hùng hậu. Cũng tương tự như vậy, những ngộ nhận rất có thể sẽ là cái đòn
bẩy giúp ta có thứ để mà nhìn ngắm, tỷ lượng và kịp thời dừng bước trước khi
chúng ta đi xa hơn nửa.
Chúng ta trước hết hãy
bắt đầu thực hiện lại đường đi thứ lớp của mọi hình thái Ngã Chấp bằng cách
phơi mở, vạch trần trọn vẹn những vận động ý thức từ tư tưởng tới cảm xúc mà
không phải thông qua một thành kiến định trị nào. Chúng ta thử quan sát từng
bước hình thành của các Ngã Tượng, cái hình danh của khái niệm Tôi, qui trình
đồng nhất tự thân với bản ngã cùng các mô thức tác tạo nên no. Bên cạnh đó,
chúng ta cũng đồng thời có một thái độ vô tư trước mọi ảo ảnh của ngã chấp,
thâm nhập và thấu đáo chúng một cách tỉnh táo. Sự đồng hóa thân tâm với một cái
Tôi, để từ đó cho ra thái độ ý thức phân biệt sẽ tạo nên ở chúng ta những mâu
thuẩn và căng thẳng. Chính việc bình tĩnh đón nhận tất cả thực tại xảy đến sẽ
giúp ta bắt đầu có một đời sống can đảm và bình đạm vô tư.
Tiến trình tiếp theo của
ý niệm hợp nhất sẽ là sự bắt đầu của ý niệm khu biệt thân tâm và đây cũng là
một cấp độ khác của ngã chấp. Ở đây, một sự hiểu biết cẩn trọng là điều hết sức
cần thiết bởi thân tâm chúng ta rõ ràng là hai cảnh giới sinh hóa hoàn toàn
khác nhau cho nên một cái nhìn thấu đáo về chúng quả là nhu cầu căn bản cho
công phu đào sâu thực tại của chúng ta. Vấn đề xử lý ngã chấp không chỉ là sự
khu biệt như vừa nói mà hơn thế nữa, còn là khả năng tách bạch tất cả thực tại
xãy đến ngay khi ta vừa xây dựng một ý niệm về cái Tôi, cái Tôi có, Tôi là, bởi
vì chính ý niệm đó dẫn tới một nhu cầu khác của ý thức là bản năng toan tính và
bào vệ cái gọi là Tôi. Và cũng chính từ căn bản ngã chấp này, từ tinh thần phân
biệt có dụng ý này, mọi thứ ngộ nhận và thành kiến được nãy sinh. Rồi từ khuynh
hướng đó, nếu cứ tiếp tục, cứ mỗi ý thức lệch lạc là một sức mạnh củng cố cho ý
niệm về cái Tôi. Ðó là những thành kiến ghét bỏ, sợ hãi, so đo, luôn có sẵn
trong lòng mỗi người.
Chỉ cho đến khi nào
chúng ta đủ sức nhìn thấy và quán triệt được toàn bộ qui trình vận động này của
ý thức thì may ra ta mới có thể chấm dứt được cái vòng lẩn quẩn bất tận đó
thôi.
Ngoài ra còn có một động
cơ khác để người ta nghĩ tới vấn đề nhất thể giữa thân tâm, đó là khuynh hướng
thích đưa ra những hướng đi giả lập tạm thời cho cái Tôi ảo vọng nhằm hướng tới
một cái gì đó khả dĩ là chân lý. Mà vì chúng ta thực ra vẫn chưa đủ kinh nghiệm
để tự hiểu biết, cảm nhận chính mình một cách trọn vẹn nên cái chúng ta đạt
được, đáng buồn thay, chỉ là một cảnh giới ảo ảnh của ý thức. Một đôi phút
thiền hành thôi có lẽ sẽ giúp ta hiểu được điều đó. Từng kinh nghiệm đơn giản
trong sự tiếp xúc giữa đôi chân với mặt đất có thể sẽ là bài học vô cùng cụ thể
và rõ ràng cho ta về hoạt động và sự tồn tại của mình. Xuyên qua từng chập tư
tưởng và hình ảnh trôi qua, ta sẽ thấy được cái gọi là thế giới quan hay nhân
sinh quan vọng tưởng của mình thật ra chẳng hề có chỗ đứng trong bất cứ một
khoảnh khắc thực tại nào. Bởi trong chừng hai bước đi thôi, ta đã có thể tạo ra
một Los Angeles hay Las Vegas hoặc Disneyland cùng vô số những cảnh quan khác
trên khắp toàn cầu. Nói chung vọng niệm nào thì sinh ra ảo tưởng nấy thôi, một
cách tương ứng và đơn giản. Ðại khái, đối diện với ý thức là ngồi xem một cuốn
phim. Ta có thể bị cuốn hút trong những gì mình nhìn thấy và cứ thế mà biểu lộ
ra tất cả phản ứng với các tình tiết của nó.
Trong tác phẩm Thiền Vô
Tâm (Zen Doctrine of No Mind), ông D.T. Suzukicó viết: "Nhất thiết do tâm
tạo. Ðiều này giống như việc người ta vẽ một con hổ rồi lại nhìn ngắm và hoảng
sợ trước nó. Thực ra ngay trong chính bức tranh đó chẳng có gì đáng sợ hãi cả,
bởi vì từ hình thù đến móng vuốt của con hổ đều chỉ là những nét cọ thông qua
sự hình dung của người họa sĩ".
Các hình thái vọng tưởng
của ý thức tự hiển hiện rồi sau cùng cũng tự mất đi. Khi chúng ta ngồi lại quan
sát từng dòng tư tưởng, chúng ta sẽ bắt đầu thấm thía con người thật của mình
qua những nét vẽ của ý thức bản thân. Có nhìn rõ được bộ mặt cùng từng bước đi
của ý thức, ta cũng đồng thời hiểu được là thật ra cuộc đời đã được mỗi người
nắn bóp, tô vẽ ra sao thông qua nhãn quan ngã chấp của mình.
Cuộc tu thiền định là
hành trình tìm đến khả năng tỉnh thức một cách trọn vẹn về tất cả mọi cảm
nghiệm thực tại trong từng giây phút. Cho đến khi nào không còn cái ý thức
"hợp nhất" nhập nhằng đối với từng thành tố tư tưởng, kể cả một ý
thức hiểu biết thanh tĩnh nhất, thì xem như ta đã bắt đầu có thể tự đối trị ý
thức phân biệt của chính mình rồi. Lúc đó, từng thực tại đi qua trước mắt ta
chỉ đơn giản được xem là những cái đang trôi đi, những khoảnh khắc kinh nghiệm
hết sức phù du ngắn ngủi và thật đơn giản: chúng là cái như vậy! Cái Tôi lúc
này coi như đã không còn chổ đứng trong bất cứ một kinh nghiệm nào cả. Nó đã bị
loại trừ, đã thành ra một người khách lạ...
Trong một đoạn kinh
nguyên thủy nhất, đức Phật đã dạy: "Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe...
Và cứ thế, một suy nghĩ chỉ là một suy nghĩ". Ðó chính là thứ kinh nghiệm
trực tiếp và giản đơn về bản chất của thực tại, chúng ra sao thì thấy chúng như
vậy - không thông qua một lăng kính ngã chấp nào hết. Khi ta nghe thấy hay cảm
nhận một âm thanh, hình ảnh hoặc một sự việc nào đó thì thật sự là đã có một
khung trời riêng tư nào cho cái biết ấy hay không? Có một giới hạn nào để ta ý
thức về cái gọi là trong ngoài chính bản thân hay không? Sasaki-roshi đã trả
lời những câu hỏi đó trong một bài thơ nhỏ:
Như một cánh bướm lẩn
khuất trong cành hoa
Như một chú chim náu mình trên cội cây
Như đứa bé vục mặt vào ngực mẹ
Sáu mươi năm qua, giữa thế giới này
Tôi đánh bạn với cao xanh!
Như bướm, như chim, như đứa bé: chủ và khách ở đây chỉ là một.
Như một chú chim náu mình trên cội cây
Như đứa bé vục mặt vào ngực mẹ
Sáu mươi năm qua, giữa thế giới này
Tôi đánh bạn với cao xanh!
Như bướm, như chim, như đứa bé: chủ và khách ở đây chỉ là một.
Giáo lý A Tỳ Ðàm (Vi
Diệu Pháp) của Phật Giáo Nguyên thủy đã từng giải thích vấn đề này bằng cách
nêu rõ hình thức hiện khởi mang tính liên thuộc của các thành tố danh sắc trong
mỗi mỗi sát na, khoảnh khắc hiện hữu của các pháp giới hữu vi tức tất cả cái gì
hiện tượng. Chẳng hạn để có được nhãn thức, sự "nhìn thấy hình sắc"
của con mắt thì đòi hỏi phải có đến ba yếu tố cơ bản mà gọi theo từ ngữ chuyên
môn là Căn - Cảnh - Thức tức thần kinh thị giác, hình ảnh và một cái tâm thức.
Trong quá trình nhìn thấy đó, hình sắc, ánh sáng cùng một sự chú ý nhất thiết
phải cùng lúc có đủ. Chỉ thiếu một trong các yếu tố vừa kể, người ta không thể
nhìn thấy cái gì hết. Khi các yếu tố được hội đủ, khoảnh khắc đó được gọi là
sát-na nhãn-thức. Vậy rõ ràng là chẳng có ai thấy, không một chủ thể nào đứng
bên ngoài chờ đợi "thời cơ nhìn thấy" cả. Ở đây chỉ có một sự hội tụ
của các điều kiện độc lập nhưng liên kết nhau cho một tâm nhãn thức được khai
sinh.
Cho đến khi nào chúng ta
hãy còn có ý niệm chia cắt manh mún hay đồng hóa một cách phi lý từng thành
phần thực tại thì cho tới lúc ấy chúng ta vẫn tiếp tục tự nhốt tù bản thân
trong những hạn chế mà chính mình đã tạo ra. Con đường thiền định hay cũng có
thể gọi là hành trình dẫn tới tự do chính là sự thấu đáo và thống kê được các
cấp độ ngã chấp và định kiến, mà chìa khóa để mở ra con đường này chính là
chánh niệm cùng tỉnh giác tức trí tuệ.
Tiếp theo sau tinh thần
phân biệt và trình độ liễu tri lý vô ngã, hành giả coi như đã bước vào một cảnh
giới tâm linh khác, đó chính là sự hình thành cái gọi là thế giới tình thương
trong chính nội tâm mình. Tình thương được nói tới ở đây không có nghĩa là một
kiểu cách hành động hay ý tưởng tìm tới một đối tượng nào đó để mà thương, mà
cảm. Tình thương ở đây càng không phải là một nỗ lực nhắm tới sự thỏa mãn cái
Tôi của bản thân, mà trên hết, đó là một sự phơi mở và đón nhận của nội tâm để
có thể cảm thông sâu sắc với tất cả đối tượng. Tình thương ở đây là cả một trái
tim dàn trải, bao dung đặt nền tảng trên tinh thần vô phân biệt.
Sư tổ Shunryu Suzuki của
thiền viện San Francisco trong những giây phút cuối cùng trước khi qua đời vì
chứng ung thư vẫn luôn tỏ ra bình tỉnh và can đảm lạ thường. Khi được hỏi có
đau đớn hay không, ông đã hóm hỉnh trả lời rằng mỗi cơn đau là một Ðức Phật nên
cơn đau nào cũng là tốt cả. Sơ Teresa ở Calcutta cũng thường nhắc tới tinh thần
tỉnh táo đó ngay cả trong những trường hợp khó chịu đựng nhất. Bà đã gọi những
cơn đau đớn trên đời này đều là hình ảnh của Ðức Chúa Ky Tô. Tất cả những tình
trạng bi thảm đó còn mang một ý nghĩa khác sâu sắc hơn một thái độ chịu đựng
đơn thuần. Ðó chính là tình thương, là sự đón nhận một cách thân thiết và ân
cần trước mọi sợ hải, thành kiến, ác cảm... Trong không gian tâm lý đó, mọi ý
niệm phân biệt đều được giải quyết, tất cả chỉ được đánh giá thành một đối
tượng tri nhận duy nhất.
Ðại sư Ấn Ðộ giáo Neem
Kazoli Baba thường dạy các đệ tử rằng đừng xua đuổi bất cứ ai ra khỏi trái tim
mình. Lời giáo hóa đó đề nghị chúng ta đừng bao giờ tự cách ly mình với bất cứ
ai và sự vật gì. Khả năng mở rộng tâm hồn ngay tự nó đã bao hàm tất cả mọi thái
độ và tình trạng tâm sinh lý cùng tất cả môi trường sống mà mình đang có mặt.
Giá trị căn bản của tình
thương ở đây là cho phép chúng ta hội nhập hết mình vào với tất cả cảm nghiệm
trong đời sống bằng cách đưa ta tiếp cận thật lòng với những nắng, gió, cây cỏ,
chim muông, con người và với cả từng góc tối sâu kín của tâm hồn mình. Nói gọn
lại, thiền định là thực tập giao lưu với đời sống. Từ thái độ sống này, tự con
người chúng ta sẽ phóng xuất một nguồn sinh lực thích ứng để hấp thụ tất cả góc
cạnh cảm nghiệm về thực tại thay vì có phản ứng đối kháng.
Chính thái độ mở ngõ đón
nhận thực tại như vậy là con đường dẫn tới trí tuệ về lý vô ngã. Ðồng thời đang
cũng là một sức mạnh để chúng ta hoàn tất tính trung thực và khả năng xuất ly
bản ngã một cách sâu sắc: Không chối bỏ mà cũng chẳng lệ thuộc vào bất cứ cái
gì, mọi thứ ra sao thì nhìn thấy đúng như vậy thôi. Ðiều này có nghĩa là ta
chẳng đối diện với thực tại thông qua một lăng kính sàng lọc nào của ham muốn,
ước vọng theo một con đường nào đó. Ly tham là con đường dẫn tới trí tuệ bởi từ
đấy chúng ta mới có thể thấu đáo chín chắn tất cả sự thật mà khỏi phải mắc bẩy
một cái nhìn méo mó nào. Như vậy hai tiếng tình thương trong trường hợp này
hoàn toàn mang ý nghĩa vô tư, không thiên lệch.
Ta có thể gọi con đường
nội tâm trên đây là hành trình từ "có" đến "không", con
đường quán chiếu thực tại đúng như bản chất của nó mà không tự tạo một sự chia
cắt khu biệt nào hết. Một khi thấy được một sự hiện hữu của mình thật ra vẫn
tồn tại giữa quá nhiều giới hạn để rồi tự tại trước tất cả ngoại giới thì coi
như ta đã tự giải thoát bản thân ra khỏi ngục tù kiến chấp mà bấy lâu nay đã
giam hảm mình. Nhận ra tính chất zéro trong sự hiện hữu của mình, chẳng chấp
thủ bất cứ một kinh nghiệm nào như là một cái Tôi thì cũng có nghĩa là ta đã
tìm thấy được mối giao thoa của toàn bộ mọi cảm nghiệm trong từng giây phút. Ở
đây không hề có một biên cảnh nào giới hạn được ta và tất cả mọi thực tại đều
trở nên sinh động, thú vị trong từng khoảnh khắc đến đi.
Bằng chính kinh nghiệm tự
thân, thấy được rằng mình không hề là những dòng tư tưởng, vận động, xúc cảm
thân xác, tình cảm, tri thức, trí tuệ nào cả thì có nghĩa là ta đã thấy được
thực tại như là chính nó. Không đồng nhất bản thân với bất cứ cảm nghiệm nào ta
mới thấy được cuộc sinh hóa thật sự của mình giống như một giấc mộng, tất cả
chỉ là biểu tượng- hiện tượng, từ ý thức nhận biết đến đối tượng được nhận
biết. Nói vậy cũng có nghĩa là vạn vật trong mắt ta lúc này đều là những thực
tại rổng tuếch, phù du, gá gửi. Và có buông được tất cả ý niệm về một cái Tôi
như vậy chúng ta có thể sống tự do, không sợ hãi bởi thật ra có còn gì để ta
phải sợ hãi trong khi chúng ta chỉ là những con số zero. Chính cái zero lồng
lộng đó sẽ cho phép ta nội tâm bình yên.
Trong Nam Hoa Kinh của
Trang tử, có một bài viết về cuộc đối thoại giữa Quang Diệu (ánh sáng) với Vô
Hữu (cái không có gì) mà nội dung cơ hồ như muốn minh họa cái tinh thần đó:
Quang Diệu hỏi Vô Hữu:
Ngài là gì hay chẳng là gì cả?
Chẳng nhận được lời đáp nào,
Quang Diệu tự mình chiêm ngắm Vô Hữu
Quang Diệu cứ trông chờ thấy được Vô Hữu
Ðể có thể xem Vô Hữu là một Hiện Hữu
Cố đắm nhìn bằng một sự im lặng sâu thẳm Quang Diệu hy vọng muốn nắm bắt được một chớp mắt của Vô Hữu.
Nhưng nhìn hoài vẫn chẳng thấy
lắng tai mãi vẫn không nghe được cái gì
Quang Diệu đi tìm cái để nắm bắt
Ðể rồi chỉ nắm bắt được có mỗi cái hư vô cuối cùng rồi Quang Diệu cũng đành phải cuối đầu nhìn nhận rằng Vô Hữu vẫn là một cái thật xa xôi.
Ai có thể đạt tới cảnh giới của nó?
Ta có thể hiểu được cái Hiện Hữu
Nhưng chẳng tài nào hiểu nổi cái "không"
vậy mãi cho tới bây giờ
Vô Hữu là gì?
Ai có thể hiểu được nó?
Ngài là gì hay chẳng là gì cả?
Chẳng nhận được lời đáp nào,
Quang Diệu tự mình chiêm ngắm Vô Hữu
Quang Diệu cứ trông chờ thấy được Vô Hữu
Ðể có thể xem Vô Hữu là một Hiện Hữu
Cố đắm nhìn bằng một sự im lặng sâu thẳm Quang Diệu hy vọng muốn nắm bắt được một chớp mắt của Vô Hữu.
Nhưng nhìn hoài vẫn chẳng thấy
lắng tai mãi vẫn không nghe được cái gì
Quang Diệu đi tìm cái để nắm bắt
Ðể rồi chỉ nắm bắt được có mỗi cái hư vô cuối cùng rồi Quang Diệu cũng đành phải cuối đầu nhìn nhận rằng Vô Hữu vẫn là một cái thật xa xôi.
Ai có thể đạt tới cảnh giới của nó?
Ta có thể hiểu được cái Hiện Hữu
Nhưng chẳng tài nào hiểu nổi cái "không"
vậy mãi cho tới bây giờ
Vô Hữu là gì?
Ai có thể hiểu được nó?
Giáo lý Ðức Phật đôi lúc
bị hiểu sai chỉ vì tính sai biệt đa dạng của các cách trình bày có vẻ như mâu
thuẩn nhau. Sự mâu thuẩn đó xuất phát từ cái nhìn bất đồng của những người tìm
đến với giáo pháp. Ðiều đó gần như đã thành thông lệ đó: "Chẳng có cái gì
Ðúng hay Sai, nhưng Ðúng là Ðúng và Sai vẫn là Sai". Ðể có được một tự do
thật sự ta không thể nắm chặt bất cứ cái gì. Kể cả trường hợp chúng ta có sở đắc
một nhận thức sâu sắc về chân lý thì bên cạnh đó ta cũng phải học cách tự tại
đối với nó. Rõ ràng là Ðức Phật đã từng nói đến và khu biệt chặt chẻ các phạm
trù thiện ác, trí tuệ với vô minh, trầm luân và giải thoát... Tất cả giáo lý đó
đều là một phần trí tuệ biện biệt của Ngài về cái Ðúng và Sai nhưng xét về một
phương diện khác thì ta cũng phải hiểu rằng tất cả đều là Không, mọi tư tưởng
đều là Vô ngã. Không bám víu vào bất cứ ý niệm Ðúng Sai nào, ta sẽ thấy được
rằng các dòng tư tưởng chỉ đơn giản là các dòng tư tưởng mà thôi. Chúng đến rồi
đi như một hành trình của những ảo tượng. Trong sự phơi mở toàn triệt này, tất
cả thị phi đều vắng bặt. Tuy thế, trong mọi nỗ lực hoạt động, ta phải luôn cẩn
trọng phán đoán việc mình làm cũng như mục đích mà hành động đó hướng tới bởi
dù sao, Ðúng vẫn là Ðúng và Sai cũng cứ là Sai!
Một trong những cặp hình
thái phản ứng đối xứng căn bản nhất trong đời sống chúng ta là Yes hoặc No
(chấp nhận và từ chối). Ý nghĩa cơ cấu của tiếng Yes là gì? Ðó là một xác định
tích cực. Khi ta nói Yes tức là ta đã tự phơi mở tâm hồn đó lại chính là một
diện mạo khác của sự bình yên trong nội nội tâm. Khi tu tập thiền định, ta rất
cần tới thái độ này. Ta phải biết nói Yes với tất cả mọi người. Mọi vật, vạn sự
cùng mọi xung động tâm sinh lý ở bản thân và có thể nói đây là một suối nguồn
kỳ diệu có thể phát tích cho ta ythật nhiều sức mạnh nội tại. Bằng chữ Yes
thôi, ta có thể hội nhập và dung hòa với tất cả. Nhưng hãy nhớ, nó là một con
dao hai lưỡi: có thể dẫn tới một sự đắm đuối, chấp thủ và cũng có khả năng đưa
đến sức mạnh giải phóng ngã chấp!
Thế còn tiếng No (không)
có ý nghĩa gì trong cuộc tu? Còn có một ý nghĩa minh triết nào đi chung với nó?
Có đấy! Tiếng No sẽ thành ra thiêng liêng khi nó được trước một cái Tôi. Vậy No
trong thiền định phải là chối từ một bản ngã. Tất cả tư tưởng, vận động, hình
hài và toàn bộ thế giới đều không có chổ đứng cho một cái Tôi nào hết. Nói
tiếng No có nghĩa là ta phải biết phủ nhận tất cả ngộ nhận, thả trôi tất cả
hiện tượng. Nhưng cẩn thận đấy. Tiếng No ngay tự nó đôi khi cũng là một mối
nguy hiểm. Khi ta hiểu sai vấn đề thì thái độ phủ nhận rất có thể trở thành một
gánh nặng áp lực. Ở đây chúng tôi nhắc lại, Yes có thể đưa tới chấp trước và No
cũng có nguy cơ đưa đến ác cảm.
Trong cả hai thái độ Yes
và No đều có đủ hai hiệu quả tích cực là tự do và không sợ hãi nếu ta biết vận
dụng chúng để thấu đáo được cái ý nghĩa trọn vẹn của giáo lý và nội tâm.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh
của Phật Giáo Bắc Truyền có đưa ra cặp phạm trù đối đãi nhau để người tu Phật
theo đó mà suy lượng và tu tập. Ðó chính là cặp Phạm trù Tướng-Không: Tất cả
mọi hiện hữu đều có hiện tướng. Không có cái gì tồn tại mà không có hình tướng
- từ hạt cát cho đến con người và tất cả cộng đồng xã hội của nhân loại cũng
đều thế: tất cả đều hiện hữu trong hình tướng. Và tất cả các hình tướng nếu suy
cho cùng thì đều là Không cả. Mọi thứ luôn thay đổi, biến diệt và không hề có
một thực thể vĩnh hằng nào hết. Tất cả đều là rỗng tuếch, tồn tại nhờ băng
hoại, đổi thay để thành ra một cái khác.
Còn chấp thủ vào hình
danh sắc tướng thì coi như chúng ta cứ còn bị sai sử bởi cái thương và cái
ghét, trong khi nếu thấy được cái tính Không của tất cả thực tại thì ta có thể
học được nhiều điều từ mọi sự và sống giữa đời một cách tiêu dao. Tuy nhiên
chúng ta cũng phải biết cảnh giác với cái gọi là tư niệm về tánh Không trong
khi vẫn chưa thật sự thấy rõ nó bằng cái nhìn chứng nghiệm tự thân. Ðức Phật đã
dùng nhiều hình ảnh để nói đến vấn đề sắc tướng và tánh Không này cũng như mối
tương quan giữa hai khái niệm. Ngài từng dạy rằng mọi sự hiện hữu đều giống như
giấc mộng, một âm thanh, như bong bóng nước mưa, như giọt sương trên đầu ngọn
cỏ. Vạn vật có thật đấy nhưng hết sức phù du. Chúng xuất hiện và tồn tại ngắn
hạn bằng vào những nhân tố thích ứng rồi sau đó lần lượt biến diệt như những gì
mong manh nhất.
Hãy từng bước thực hiện
công phu đối diện thực tại qua từng phút giây. Hãy cẫn thận quan sát mọi thứ
ngay khi chúng vừa xãy đến để thấy rằng thực ra chúng ta từ lâu đã có qua nhiều
định kiến, đã lợi dụng vô vàn khái niệm để đánh giá thực tại từ nhiều góc độ
sai lệch. Hảy biết bao dung mọi thực tại bằng hai thái độ Yes-No một cách hợp
lý và khu biệt tinh tường đâu là biểu tượng, đâu là thực tính. Sử dụng sai lầm
hai thái độ Yes và No cũng có nghĩa là chúng ta đang đầu tư một cái Tôi nguy
hiểm.
Trong Tín Tâm Kệ của đệ
tam tổ thiền tông Trung Hoa có những dòng thiền kệ sau đây:
"Muốn tìm thấy chân
lý thì đừng bao giờ ôm ấp bất cứ quan niệm nào và cũng chẳng nên đối lập lại
cái gì. Hãy hiểu rằng ý niệm phân biệt là một chứng tâm bệnh. Khi ý nghĩa sâu
thẳm này chưa được thấu đáo thì một sự bình yên thật sự của nội tâm vẫn không
sao có được. Cái gọi là Ðạo vốn lồng lộng như vũ trụ bao la, ở đó không có gì
là khiếm khuyết, cũng không có gì là toàn bích. Ðúng vậy, chính thái độ chọn
lựa của chúng ta, chấp nhận hoặc khước từ, là vách chắn cho trí tuệ về bản chất
như thật của các pháp. Nó không cho phép ta nhìn thấy gì hết.
Hảy sống vô chấp trước
mọi ngoại cảnh cũng như đối với cả cảm nghiệm về tánh không. Hãy nhập một với
tính Như Nhất của vạn pháp, các ngộ nhận rồi cũng tự giải trừ khi các ngươi
chẳng làm gì cả thì chính nỗ lực vô vi đó đã cho các ngươi sống rất nhiều. Cho
tới khi nào vẫn còn phân biệt bỉ thử thì coi như các ngươi vẫn không hiểu nổi
tính Như Nhất của vạn pháp".
Cái phong phú sinh động
của trí tuệ thiền định là giúp ta khám phá và nhận thức được cái gọi là sự thật
cùng sự tương quan của nó với những cái khác: đó là sự phát hiện về từng giai
đoạn của ý niệm phân biệt, về một cái Tôi hư tưởng và toàn bộ cơ cấu tồn tại
của đời sống nội ngoại tại. Cũng nhờ vào trí tuệ tu tập đó, ta kinh nghiệm được
tính vô ngã của tất cả hiện hữu. Bên cạnh đó, đời sống thiền định còn dạy ta
biết sống bao dung với tất cả, đó nhận mọi thứ mà chẳng phân biệt hình hài và
phương hướng khứ lai. Rồi bằng vào sự nhận thức về con đường nào chúng ta đã
tạo ra một cái Tôi khốn khổ, chắn chắn chúng ta cũng sẽ tìm thấy nẻo về tự do.
J. G.