là một tiến trình vi tế mà bạn đang áp
dụng ngay thời điểm hiện tại. Phương pháp thiền minh sát tuệ còn gọi là thiền
tuệ hay thiền quán (tiếng Pali là Vipassana) đã được đức Phật chỉ dạy cách đây
hơn 2500 năm, là phương pháp thiền đặc biệt chú trọng vào việc kinh nghiệm sự
chánh niệm liên tục.
Khi bạn nhận thức (biết được) một vật gì lần
đầu tiên, khi ấy sẽ có một sự ý thức (biết) thuần túy thoáng qua rất nhanh
trước lúc bạn có khái niệm về vật đó, trước lúc bạn nhận dạng ra nó. Chính giai
đoạn ý thức (biết) thuần túy đang trôi chảy là chánh niệm. Giai đoạn này rất
ngắn, chỉ thoáng qua một phần rất nhỏ của giây trước khi mắt bạn tập trung nhìn
vật ấy, trí bạn tập trung xem xét, cụ thể hóa, và phân biệt nó với những vật
khác. Trong tiến trình nhận thức thông thường, giai đoạn chánh niệm xảy ra rất
nhanh và khó quan sát. Phần lớn chúng ta có thói quen để phí tâm vào các bước
còn lại, tức tập trung nhận định, đặt tên và miên man suy nghĩ để khái quát vật
thể. Điều này làm cho chánh niệm bị lãng quên vì sự xáo trộn đó. Chính thiền
minh sát tuệ sẽ tập cho chúng ta phát triển chánh niệm, giai đoạn ý thức thuần
túy.
Khi chánh niệm được phát triển bằng phương
pháp thích hợp, bạn sẽ thấy rằng kinh nghiệm sự chánh niệm của bạn một ngày
thâm sâu và bạn sẽ thay đổi cách nhìn đối với vạn vật. Một khi bạn biết phương
pháp rồi, bạn sẽ thấy chánh niệm có nhiều đặc tính rất hay.
I.
Các đặc tính cúa chánh niệm.
– Chánh niệm phản ánh những gì đang xảy ra ở
thời điểm hiện tại và phản ánh một cách chính xác cách thức xảy ra, không có
thành kiến xen vào.
– Chánh niệm là sự quán sát không cần phán
đoán. Đó là khả năng quán sát của tâm không kèm sự phê bình. Bằng khả năng này
hành giả sẽ nhìn thấy sự vật mà không quy kết hay đánh giá. Hành giả sẽ rất
ngạc nhiên vì không có vật gì cả, đơn thuần thấy các sự vật như chúng đang là,
theo bản chất thực của chúng. Hành giả không lựa chọn, cũng không đánh giá, mà
chỉ quan sát thôi.
Về phương diện tâm lý học, chúng ta không thể
nào quan sát một cách khách quan những gì đang xảy ra bên trong chúng ta nếu
ngay lúc đó chúng ta không chấp nhận sự hiện hữu của các trạng thái tâm khác
nhau. Điều này đặc biệt đúng với các trạng thái không hài lòng của tâm. Để quán
sát được nỗi sợ hãi của chính mình, chúng ta phải chấp nhận sự thật rằng chúng
ta đang sợ. Chúng ta không thể nào xem xét được sự chán nản của chính mình nếu
không hoàn toàn thừa nhận nó. Tương tự đối với sự cáu kỉnh lo âu, thất vọng và
các cảm giác khó chịu khác. Bạn không thể quán sát một điều gì hoàn hảo nếu bạn
chối bỏ sự hiện hữu của nó. Dù kinh nghiệm điều gì đi nữa, chánh niệm chỉ thừa
nhận điều đó. Rất đơn giản, nếu một điều gì đang xảy ra trong cuộc sống thì chỉ
cần bạn ý thức về nó mà thôi. Không tự cao, không tủi hổ, không có gì thuộc cá
nhân đang bị đe dọa. Cái gì xảy đến thì xảy đến.
– Chánh niệm là sự quán sát không thiên vị,
không lệch về một phía. Chánh niệm không dính mắc với những gì được ý thức. Nó
chỉ là sự ý thức. Chánh niệm không mê đắm cái tốt, cũng không tránh né cái xấu,
không chấp giữ những gì vừa ý, cũng không lướt nhanh qua sự khó chịu. Chánh
niệm thấy tất cả những gì trải qua đều như nhau, mọi ý nghĩ như nhau, mọi cảm
xúc như nhau. Không có chi bị đè nén, không có chi bị ngăn chặn. Chánh niệm
không chạy theo sự mến chuộng.
– Chánh niệm là sự ý thức không mang tính khái
niệm. Một thuật ngữ khác của chánh niệm là “sự ý thức đơn thuần”. Nó không phải
là sự suy nghĩ, cũng không dính dáng gì với những ý nghĩ hay khái niệm, cũng
không gắn với những ý niệm, ý kiến hay trí nhớ. Chánh niệm chỉ quan sát. Chánh
niệm ghi nhận những gì trải qua nhưng không so sánh chúng. Nó chỉ quán sát mọi
thứ như thể chúng đang xảy ra lần đầu. Nó không phải là sự phân tích dựa trên
sự ngẫm nghĩ và nhớ lại (các sự kiện đã qua), mà nó là kinh nghiệm trực tiếp với
những gì đang xảy ra, không thông qua suy nghĩ. Chánh niệm đến trước suy nghĩ
trong tiến trình nhận thức.
– Chánh niệm là sự ý thức ngay thời điểm hiện
tại. Nó xảy ra tại đây và ngay bây giờ. Nó là sự quán sát những gì đang xảy ra
ngay lúc này, ngay hiện tại. Bao giờ chánh niệm cũng trụ ngay hiện tại. Nếu bạn
đang nhớ về thầy cô giáo lớp 2 của mình, đó là trí nhớ. Sau đó khi bạn ý thức
được mình đang nhớ thấy cô giáo lớp 2, đó là chánh niệm. Kế đến nếu bạn khái
quát tiến trình tâm đó và nói với chính mình rằng: “Ồ, tôi đang nhớ!” thì đó là
suy nghĩ.
– Chánh niệm là sự tỉnh giác không có bản ngã.
Nó xảy ra không dính gì đến bản ngã. Bằng chánh niệm, hành giả thấy được tất cả
các hiện tượng không liên quan gì đến khái niệm “tôi”, “của tôi”, “cái của
tôi”. Ví dụ, giả sử, bạn bị đau chân trái. Thông thường bạn nói rằng: tôi bị
đau. Khi sử dụng chánh niệm, bạn chỉ đơn thuần ghi nhận cảm giác đau đó chỉ là
một cảm giác mà thôi. Bạn sẽ không cộng thêm khái niệm “tôi” vào. Chánh niệm
ngăn không cho bạn thêm vào hay giảm đi bất cứ cái gì từ sự nhận thức. Bạn
không làm nổi bật, không nhấn mạnh cái gì cả. Bạn chỉ quán sát cái đang hiện
hữu chứ không làm méo mó đi.
– Chánh niệm là sự ý thức không kèm mục đích.
Trong chánh niệm, bạn không ráng sức vì mong các kết quả. Bạn không cố gắng
hoàn tất một điều gì cả. Khi có chánh niệm, bạn kinh nghiệm được thực tại hiện
tiền. Không có gì để bạn giành được. Chỉ mỗi việc quán sát mà thôi.
– Chánh niệm là sự ý thức về những đổi thay.
Nó quán sát dòng chảy qua của sự trải nghiệm. Nó theo dõi sự vật đang chuyển
đổi. Nó thấy sự sanh ra, lớn lên rồi trưởng thành của tất cả các hiện tượng. Nó
nhìn xem sự già nua và chết đi.
Chánh niệm theo dõi lên tục trong từng sát na.
Nó quán sát tất cả mọi hiện tượng – vật chất, tinh thần hoặc cảm xúc hay bất kỳ
cái gì đang diễn ra trong tâm. Hành giả chỉ ngồi lại xem buổi biểu diễn đó.
Chánh niệm là sự quán sát tính chất cơ bản của mỗi hiện tượng đang trôi qua. Nó
theo dõi hiện tượng đó khởi sinh và biến mất. Nó thấy hiện tượng đó làm chúng
ta cảm giác ra sao và phản ứng lại thế nào. Nó xem cách thức gây ảnh hưởng đối
với các hiện tượng khác.
Trong chánh niệm, hành giả là quan sát viên,
có công việc duy nhất là theo dõi sự biến chuyển đang diễn ra liên tục của thế
giới bên trong. Hãy lưu ý điểm này. Trong chánh niệm, hành giả chỉ quan sát thế
gới bên trong, đừng để ý thế giới bên ngoài. Mọi thứ vẫn ở đấy, nhưng trong
thiền tập, phạm vi của hành giả là những trải nghiệm của chính mình, suy nghĩ
của chính mình, cảm giác của chính mình, và nhận thức của chính mình. Hành giả
cũng chính là phòng thí nghiệm của chính mình. Thế giới bên trong có một lượng
thông tin khổng lồ bao gồm sự phản ảnh về thế giới bên ngoài và còn hơn thế
nữa. Sự khảo sát nguồn tài liệu (thông tin) này sẽ dẫn đến tự do hoàn toàn.
Chánh niệm là sự quán sát tự thân. Hành giả
vừa là người trong cuộc vừa là người quan sát. Nếu xem xét các cảm giác sinh
lý, hành giả cũng đồng thời cảm nhận được chúng. Chánh niệm không phải là kiến
thức duy lý trí. Nó chỉ là sự ý thức mà thôi. Chánh niệm mang tính khách quan,
nhưng nó không lạnh lùng cũng không phải không có cảm giác. Nó là sự trải
nghiệm tỉnh táo trong cuộc đời, một sự tham gia tỉnh giác đối với quá trình
sống đang diễn ra.