Thursday, June 30, 2016

Chánh niệm có ba hoạt động căn bản.

 Chúng ta có thể xem ba hoạt động như các định nghĩa về chức năng của chánh niệm:
1/ Chánh niệm nhắc chúng ta nhớ những gì chúng đang cần phải làm.
2/ Chánh niệm nhìn các sự việc như hiện thực.
3/ Chánh niệm thấy được bản chất sâu sa của mọi hiện tượng.
Chúng ta hãy khảo sát cụ thể hơn các định nghĩa này.
1. Chánh niệm nhắc bạn nhớ những gì chúng đang cần phải làm : Khi hành thiền, bạn chú ý vào một đề mục. Khi tâm bạn lan man ra khỏi sự tập trung này, thì chánh niệm sẽ nhắc bạn rằng tâm bạn đang lan man và bạn cần phải làm những gì. Chính chánh niệm đem bạn về lại đề mục hành thiền. Tất cả sự việc này xảy ra nhanh chóng, không cần sự độc thoại nội tâm nào. Việc hành thiền không phải là việc suy nghĩ. Hành thiền liên tục sẽ biến chức năng này thành thói quen của tâm, rồi thói quen ấy sẽ tiếp tục duy trì trong suốt quãng đời còn lại của bạn.
Lúc nào bạn cũng nên chú ý đơn thuần vào những gì đang diễn ra, ngày ngày như thế, trong buổi ngồi thiền chính thức hay trong các tư thế hoạt động khác. Nhiều hành giả có khi phải mất vài năm hoặc thậm chí vài thập niên để hoàn thiện được điều này. Thói quen miên man suy nghĩ của chúng ta đã được huân tập quá lâu rồi, và thói quen ấy sẽ đeo bám chúng ta rất chặt. Cách giải quyết duy nhất là duy trì đều đặn thực hành chánh niệm liên tục. Khi chánh niệm có mặt bạn sẽ để ý thấy được lúc nào thì bạn bị kẹt trong các cách thức suy nghĩ. Chính sự để ý này giúp bạn lui ra, thoát khỏi tiến trình suy nghĩ đó. Kế đền, chánh niệm đưa sự chú ý của bạn trở về tập trung trên đề mục nếu lúc đó bạn đang hành thiền. Nếu không chánh niệm sẽ chỉ là sự áp dụng chú ý đơn thuần, chỉ là một sự để ý thuần túy xem cái gì đang xuất hiện chứ không can dự vào: “À, đến cái này… và bây giờ đến cái này… và giờ thì cái này… giờ thì cái này.”
Chánh niệm vừa là sự chú ý đơn thuần vừa là chức năng nhắc chúng ta nhớ chú ý đơn thuần nếu chúng ta quên. Sự chú ý đơn thuần là sự để ý nhận biết. Nó được thiết lập trở lại bằng cách chỉ nhận biết, ghi nhận rằng vừa rồi nó đã không có mặt. Bạn nhận ra điều này cũng có nghĩa là lúc này bạn đang để ý nhận biết và bạn tiếp tục chú ý đơn thuần.
Với chánh niệm bạn sẽ có cảm giác thư thái, trong sáng và đầy nghị lực. Trong khi đó sự suy nghĩ lại nặng nề, chậm chạp và kiểu cách. Tuy nhiên đây chỉ là sự mô tả bằng ngôn từ. Khi bạn thực hành, bạn sẽ thấy được sự khác biệt. Rồi có thể bạn sẽ diễn tả bằng ngôn từ của riêng bạn và những từ đã dùng nơi đây sẽ trở nên thừa thải. Xin hãy ghi nhớ, thực hành là điều quan trọng nhất.
2. Chánh niệm nhìn các sự việc như hiện thực : Nó không thêm cái gì vào sự suy tưởng cũng không bớt ra cái gì. Nó cũng không bóp méo sự việc nào. Nó chỉ là sự chú ý đơn thuần, chỉ nhìn vào những gì đang đến. Còn suy nghĩ thì thích dán các thứ lên kinh nghiệm, lên những gì xảy đến với chúng ta, chồng chất lên đấy các khái niệm, ý tưởng để rồi nhận chìm chúng ta trong vòng xoáy của các dự định, lo âu, sợ hãi và tưởng tượng. Khi chánh niệm, bạn không tham gia vào trò chơi đó. Bạn chỉ nhận biết chính xác cái gì đang xuất hiện trong tâm, rồi ghi nhận cái tiếp theo: “À, này… và này… và giờ thì cái này.” Thật sự rất đơn giản.
3. Chánh niệm thấy được bản chất sâu xa của mọi hiện tượng: Chỉ chánh niệm mới có thể nhận biết ba tính chất cơ bản mà theo lời Phật dạy là bản chất thâm sâu nhất của sự hiện hữu. Đó là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Tức sự vắng mặt của thường còn, bất biến, và có thực thể hay còn gọi là linh hồn hoặc bản ngã (tiếng Pali: anicca, dukkha, anatta; tiếng Anh: impermanence, unsatisfactoriness, selflessness). Sự thực này không phải đưa ra như một giáo điều dẫn đến niềm tin mù quáng. Người con Phật sẽ cảm thấy sự thật này phổ quát và hiển hiện rõ ràng đối với người nào quan tâm khảo sát một cách đúng đắn. Chánh niệm là phương pháp khảo sát đưa đến sự thật ấy. Chánh niệm một mình nó có khả năng phát hiện tầng sâu nhất của thực tại qua quan sát. Với mức độ xem xét kỹ này hành giả sẽ thấy (a) tất cả pháp hữu vi (do điều kiện tạo thành) vốn dĩ tạm thời, tồn tại trong chốc lát, (b) mọi vật trên thế gian cuối cùng đều bất toại nguyện, (c) thực ra không có thực thể nào bất biến, thường hằng, tất cả chỉ là các tiến trình.
Chánh niệm hoạt động giống như một kính hiển vi điện tử. Nghĩa là nó đạt tới mức rất vi tế đến độ hành giả thật sự có thể thấy trực tiếp những thực tại được lý thuyết mô tả về tiến trình tâm. Chánh niệm thấy tính chất vô thường của mỗi sự nhận biết. Nó thấy tính tạm thời và hoại diệt của tất cả những gì được nhận biết. Nó cũng thấy tính chất bất toại nguyện của vốn có của các pháp hữu vi. Nó nhận ra rằng thật là không khôn ngoan nếu nắm bắt từng cảnh đang hoại diệt bởi làm vậy thì không thể tìm được bình an và hạnh phúc. Sau cùng chánh niệm sẽ thấy bản chất vô ngã của tất cả các pháp, các hiện tượng. Nó thấy rõ chúng ta đã tùy tiện chọn một khối nhận thức nào đó, chia chẻ chúng ra khỏi dòng trải nghiệm đang diễn ra và rồi khái niệm chúng như những thực thể riêng biệt, lâu bền. Chánh niệm thật sự nhận ra những điều này. Nó không suy luận chúng mà thấy trực tiếp.

Khi được phát triển đầy đủ, chánh niệm thấy ba đặc tính này của vạn hữu trực tiếp, ngay lập tức, không qua phương tiện tư duy. Ba đặc tính này không tồn tại riêng rẽ. Chúng ta nỗ lực thực hiện tiến trình vốn rất đơn giản gọi là chánh niệm để thấy được ba đặc tính này và diễn dạt tầm hiểu biết đó bằng những biểu tượng thật rườm rà thông qua suy nghĩ. Chánh niệm là một tiến trình, chứ không chia ra nhiều bước. 

Nguyên cả tiến trình này diễn ra đồng bộ: bạn ghi nhận mình thiếu chánh niệm và chính sự ghi nhận này là kết quả của chánh niệm; chánh niệm là sự chú ý đơn thuần, sự chú ý đơn thuần đang ghi nhận các sự vật một cách chính xác như thực, không bóp méo; và hiện thực là các sự vật đều là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Cả tiến trình xảy ra chớp nhoáng. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là chỉ cần giây phút chánh niệm lần đầu là bạn sẽ nhanh chóng đạt được sự giải thoát. Bạn cần thực hiện việc đưa chánh niệm vào đời sống ý thức, sau đó nỗ lực duy trì trạng thái chánh niệm. Công việc này sẽ mang lại cho bạn niềm vui nên rất đáng để phấn đấu.

Wednesday, June 29, 2016

Chánh niệm, tiếng Pali là Sati, tiếng Anh dịch là Mindfulness,


 là một tiến trình vi tế mà bạn đang áp dụng ngay thời điểm hiện tại. Phương pháp thiền minh sát tuệ còn gọi là thiền tuệ hay thiền quán (tiếng Pali là Vipassana) đã được đức Phật chỉ dạy cách đây hơn 2500 năm, là phương pháp thiền đặc biệt chú trọng vào việc kinh nghiệm sự chánh niệm liên tục.
Khi bạn nhận thức (biết được) một vật gì lần đầu tiên, khi ấy sẽ có một sự ý thức (biết) thuần túy thoáng qua rất nhanh trước lúc bạn có khái niệm về vật đó, trước lúc bạn nhận dạng ra nó. Chính giai đoạn ý thức (biết) thuần túy đang trôi chảy là chánh niệm. Giai đoạn này rất ngắn, chỉ thoáng qua một phần rất nhỏ của giây trước khi mắt bạn tập trung nhìn vật ấy, trí bạn tập trung xem xét, cụ thể hóa, và phân biệt nó với những vật khác. Trong tiến trình nhận thức thông thường, giai đoạn chánh niệm xảy ra rất nhanh và khó quan sát. Phần lớn chúng ta có thói quen để phí tâm vào các bước còn lại, tức tập trung nhận định, đặt tên và miên man suy nghĩ để khái quát vật thể. Điều này làm cho chánh niệm bị lãng quên vì sự xáo trộn đó. Chính thiền minh sát tuệ sẽ tập cho chúng ta phát triển chánh niệm, giai đoạn ý thức thuần túy.
Khi chánh niệm được phát triển bằng phương pháp thích hợp, bạn sẽ thấy rằng kinh nghiệm sự chánh niệm của bạn một ngày thâm sâu và bạn sẽ thay đổi cách nhìn đối với vạn vật. Một khi bạn biết phương pháp rồi, bạn sẽ thấy chánh niệm có nhiều đặc tính rất hay.

I. Các đặc tính cúa chánh niệm.
– Chánh niệm phản ánh những gì đang xảy ra ở thời điểm hiện tại và phản ánh một cách chính xác cách thức xảy ra, không có thành kiến xen vào.
– Chánh niệm là sự quán sát không cần phán đoán. Đó là khả năng quán sát của tâm không kèm sự phê bình. Bằng khả năng này hành giả sẽ nhìn thấy sự vật mà không quy kết hay đánh giá. Hành giả sẽ rất ngạc nhiên vì không có vật gì cả, đơn thuần thấy các sự vật như chúng đang là, theo bản chất thực của chúng. Hành giả không lựa chọn, cũng không đánh giá, mà chỉ quan sát thôi.
Về phương diện tâm lý học, chúng ta không thể nào quan sát một cách khách quan những gì đang xảy ra bên trong chúng ta nếu ngay lúc đó chúng ta không chấp nhận sự hiện hữu của các trạng thái tâm khác nhau. Điều này đặc biệt đúng với các trạng thái không hài lòng của tâm. Để quán sát được nỗi sợ hãi của chính mình, chúng ta phải chấp nhận sự thật rằng chúng ta đang sợ. Chúng ta không thể nào xem xét được sự chán nản của chính mình nếu không hoàn toàn thừa nhận nó. Tương tự đối với sự cáu kỉnh lo âu, thất vọng và các cảm giác khó chịu khác. Bạn không thể quán sát một điều gì hoàn hảo nếu bạn chối bỏ sự hiện hữu của nó. Dù kinh nghiệm điều gì đi nữa, chánh niệm chỉ thừa nhận điều đó. Rất đơn giản, nếu một điều gì đang xảy ra trong cuộc sống thì chỉ cần bạn ý thức về nó mà thôi. Không tự cao, không tủi hổ, không có gì thuộc cá nhân đang bị đe dọa. Cái gì xảy đến thì xảy đến.
– Chánh niệm là sự quán sát không thiên vị, không lệch về một phía. Chánh niệm không dính mắc với những gì được ý thức. Nó chỉ là sự ý thức. Chánh niệm không mê đắm cái tốt, cũng không tránh né cái xấu, không chấp giữ những gì vừa ý, cũng không lướt nhanh qua sự khó chịu. Chánh niệm thấy tất cả những gì trải qua đều như nhau, mọi ý nghĩ như nhau, mọi cảm xúc như nhau. Không có chi bị đè nén, không có chi bị ngăn chặn. Chánh niệm không chạy theo sự mến chuộng.
– Chánh niệm là sự ý thức không mang tính khái niệm. Một thuật ngữ khác của chánh niệm là “sự ý thức đơn thuần”. Nó không phải là sự suy nghĩ, cũng không dính dáng gì với những ý nghĩ hay khái niệm, cũng không gắn với những ý niệm, ý kiến hay trí nhớ. Chánh niệm chỉ quan sát. Chánh niệm ghi nhận những gì trải qua nhưng không so sánh chúng. Nó chỉ quán sát mọi thứ như thể chúng đang xảy ra lần đầu. Nó không phải là sự phân tích dựa trên sự ngẫm nghĩ và nhớ lại (các sự kiện đã qua), mà nó là kinh nghiệm trực tiếp với những gì đang xảy ra, không thông qua suy nghĩ. Chánh niệm đến trước suy nghĩ trong tiến trình nhận thức.
– Chánh niệm là sự ý thức ngay thời điểm hiện tại. Nó xảy ra tại đây và ngay bây giờ. Nó là sự quán sát những gì đang xảy ra ngay lúc này, ngay hiện tại. Bao giờ chánh niệm cũng trụ ngay hiện tại. Nếu bạn đang nhớ về thầy cô giáo lớp 2 của mình, đó là trí nhớ. Sau đó khi bạn ý thức được mình đang nhớ thấy cô giáo lớp 2, đó là chánh niệm. Kế đến nếu bạn khái quát tiến trình tâm đó và nói với chính mình rằng: “Ồ, tôi đang nhớ!” thì đó là suy nghĩ.
– Chánh niệm là sự tỉnh giác không có bản ngã. Nó xảy ra không dính gì đến bản ngã. Bằng chánh niệm, hành giả thấy được tất cả các hiện tượng không liên quan gì đến khái niệm “tôi”, “của tôi”, “cái của tôi”. Ví dụ, giả sử, bạn bị đau chân trái. Thông thường bạn nói rằng: tôi bị đau. Khi sử dụng chánh niệm, bạn chỉ đơn thuần ghi nhận cảm giác đau đó chỉ là một cảm giác mà thôi. Bạn sẽ không cộng thêm khái niệm “tôi” vào. Chánh niệm ngăn không cho bạn thêm vào hay giảm đi bất cứ cái gì từ sự nhận thức. Bạn không làm nổi bật, không nhấn mạnh cái gì cả. Bạn chỉ quán sát cái đang hiện hữu chứ không làm méo mó đi.
– Chánh niệm là sự ý thức không kèm mục đích. Trong chánh niệm, bạn không ráng sức vì mong các kết quả. Bạn không cố gắng hoàn tất một điều gì cả. Khi có chánh niệm, bạn kinh nghiệm được thực tại hiện tiền. Không có gì để bạn giành được. Chỉ mỗi việc quán sát mà thôi.
– Chánh niệm là sự ý thức về những đổi thay. Nó quán sát dòng chảy qua của sự trải nghiệm. Nó theo dõi sự vật đang chuyển đổi. Nó thấy sự sanh ra, lớn lên rồi trưởng thành của tất cả các hiện tượng. Nó nhìn xem sự già nua và chết đi.
Chánh niệm theo dõi lên tục trong từng sát na. Nó quán sát tất cả mọi hiện tượng – vật chất, tinh thần hoặc cảm xúc hay bất kỳ cái gì đang diễn ra trong tâm. Hành giả chỉ ngồi lại xem buổi biểu diễn đó. Chánh niệm là sự quán sát tính chất cơ bản của mỗi hiện tượng đang trôi qua. Nó theo dõi hiện tượng đó khởi sinh và biến mất. Nó thấy hiện tượng đó làm chúng ta cảm giác ra sao và phản ứng lại thế nào. Nó xem cách thức gây ảnh hưởng đối với các hiện tượng khác.
Trong chánh niệm, hành giả là quan sát viên, có công việc duy nhất là theo dõi sự biến chuyển đang diễn ra liên tục của thế giới bên trong. Hãy lưu ý điểm này. Trong chánh niệm, hành giả chỉ quan sát thế gới bên trong, đừng để ý thế giới bên ngoài. Mọi thứ vẫn ở đấy, nhưng trong thiền tập, phạm vi của hành giả là những trải nghiệm của chính mình, suy nghĩ của chính mình, cảm giác của chính mình, và nhận thức của chính mình. Hành giả cũng chính là phòng thí nghiệm của chính mình. Thế giới bên trong có một lượng thông tin khổng lồ bao gồm sự phản ảnh về thế giới bên ngoài và còn hơn thế nữa. Sự khảo sát nguồn tài liệu (thông tin) này sẽ dẫn đến tự do hoàn toàn.

Chánh niệm là sự quán sát tự thân. Hành giả vừa là người trong cuộc vừa là người quan sát. Nếu xem xét các cảm giác sinh lý, hành giả cũng đồng thời cảm nhận được chúng. Chánh niệm không phải là kiến thức duy lý trí. Nó chỉ là sự ý thức mà thôi. Chánh niệm mang tính khách quan, nhưng nó không lạnh lùng cũng không phải không có cảm giác. Nó là sự trải nghiệm tỉnh táo trong cuộc đời, một sự tham gia tỉnh giác đối với quá trình sống đang diễn ra.

Tuesday, June 28, 2016

THỰC TẬP TRON ĐƠI SỐNG HÀNG NGÀY

Trong thế giới bận rộn, phức tạp và nhiễu nhương này, chúng ta cần đi những bước thực tiễn như thế nào để rèn luyện đầu óc mình?

Bước đầu tiên lả thực tiễn một sự thực tập thiền đều đặn hàng ngày. Điều này đòi hỏi kỷ luật. Việc sắp xếp thời gian mỗi ngày để thực tập không phải luôn luôn dễ dàng vì nhiều việc khác thúc bách chúng ta. Nhưng sự rèn luyện nào cũng vậy, muốn có kết quả thì phải tập luyện đều đặn.Tất nhiên không phải lần nào ngồi chúng  ta cũng đều tập trung tâm trí được. Đôi khi chúng ta cảm thấy chán ngán  và không yên. 

Những lúc thăng trầm là chuyện bình thường. Nhưng điều quan trọng là chúng ta kiên trì và thực hành đều đặn, chứ không phải  là chúng ta cảm thấy như thế nào  mỗi thời thiền tập. Pablo Casals, nghệ sĩ hồ cầm nổi tiếng thế giới, nay đã 93 tuổi vẫn thực tập 3 tiếng mỗi ngày. Khi được hỏi tại sao ở tuồi này ông vẫn còn thực tập, ông đáp: “tôi mới bắt đầu thấy khá hơn một chút”.

Việc thực tập chỉ được thực hiện với sự nỗ lực của bạn. Không ai có thể làm thay cho mình. Có nhiều phương pháp và truyền thống, và bạn có thể chọn lựa cách nào thích hợp cho mình. Nhưng chỉ với sự đều đặn thì sự chuyển hóa  mới diễn ra; nếu không làm thì chúng ta sẽ cứ mãi hành động theo nếp suy nghĩ bị điều kiện hóa.

Bước kế tiếp là giữ cho mình chánh niệm và tỉnh giác về thân thể mình suốt ngày. Hàng ngày khi đi vào công việc, chúng ta thường bị lạc vào những ý nghĩ về quá khứ hay tương lai, và đánh mất ý thức về thân thể của chúng ta.

Một sự nhắc nhở đơn giản về việc đi lạc vào trong dòng tư tưởng là cảm giác vội vã. Vội vã là cảm giác nào tới phá trước. Đầu óc chúng ta luôn phóng tới trước, hướng về những gì chúng ta muốn làm chứ không nằm yên trong thân thể để ý thức mình đang ở đâu.

Hãy học cách nhận diện cảm giác vội vã này- nó không liên quan gì đến chúng ta đi chậm hay nhanh. Chúng ta có thể có cảm giác  vội vã khi đang đi chậm, và khi đang đi nhanh chúng ta vẫn có thể để tâm đến thân thể của mình. Đi như thế nào  thì chúng ta vẫn có thể không có mặt trong thân. Nếu làm được thì bạn hãy để ý xem tư tưởng hay tình cảm nào đang thu hút sự chú ý của mình. Rồi, hãy ngừng lại và chú ý vào thân thể của mình, hãy cảm nhận bàn chân đang ở trên mặt đất, và cảm nhận được bước đi kế tiếp của mình.

Đức Phật đã nói một câu rất dứt khoát về sự thực tập này “Chánh niệm về thân thể dẫn đến Niết Bàn”. Đây không phải la một sự thực tập hời hợt. Chánh niệm về thân thể giữ cho chúng ta có mặt – và vì thế biết được những gì đang xảy ra, khó nhớ để thực tập, nhưng thực tập thi không khó. Tất cả nằm trong sự thực tập: đo là họa thiền đều đặn và luôn chánh niệm về thân thể.

Để phát triển chánh niệm và định lực sâu,có mặt với thân thể của mình, và có một mối liên hệ khéo léo với các ý nghĩ và tình cảm của mình, chúng ta không những cần thiền tọa mỗi ngày mà còn phải dành thời gian tham dự khóa tu nhập thất. Thỉnh thoảng chúng ta nên dẹp bớt công việc, để dành thời gian cho việc thực tập miên mật hơn.Thời gian nhập thất không phải là một sự xa xỉ. Nếu chúng ta thành thật và quyết tâm mạnh mẽ để tỉnh thức, để có tự do – để hướng đến cái gì mà mình xem là có giá trị cao nhất – thì thực hiện một khóa tu nhập thất là phần thiết yếu.

Chúng ta nên tạo một nhịp điệu cho cuộc sống của mình, thiết lập một sự cân bằng giữa thời gian dành cho hoạt động bên ngoài liên hệ với thế giới, và thời gian hướng vào bên trong. Nhà thơ vĩ đại Rumi của Sufi đã từng lưu ý: “Chỉ ở trong phòng một mình một lúc thôi cũng có giá trị  hơn bất cứ điều gì mà người khác cho bạn”.


Thoạt đầu thời gian quay vào trong có thể là một ngày, một dịp cuối tuần, hay một tuần. Ở trung tâm thiền của chúng tôi, các bạn có thể đến ở lại nhập thất mỗi năm 3 tháng, và ở Forest Refuge mới, các bạn có thể ở lại suốt năm. Chúng ta có thể làm bất cứ cái gì mình thấy thích hợp và có thể làm để tìm được nhịp điệu cân bằng giữa đời sống trong thế giới bên ngoài và sự yên tĩnh trong nội tâm. Bằng cách này chúng ta mới phát triển được  sự tập trung và chánh niệm ở các tầng lớp ngày càng sâu sắc hơn, mà nó sẽ làm cho chúng ta đời sống trong đời với lòng từ bi và lân mẫn hơn.

Monday, June 27, 2016

XỬ LÝ CẢM XÚC

Tương tự như thế, chúng ta có thể rèn luyện mình chánh niệm về các cảm xúc, những loại năng lượng cực mạnh, cuốn phăng cả thân tâm chúng ta như những cơn sóng thần. Chỉ trong một thoáng giây chúng ta có thể trải qua rất nhiều cảm xúc giận dữ, phấn khích, buồn bã, đau khổ, yêu thương, vui vẻ, thương xót, ghen ghét, sung sướng , thích thú, chán nản. Có những cảm xúc đẹp đẽ  và những cảm xúc khó chịu – trong những hầu hết những giây phút ấy, chúng ta bị chìm đắm vào trong chúng ta những câu chuyện làm cho chúng phát sinh.

Chúng ta rất dễ bị lạc trong những vở bi hài kịch do chính mình  tạo tác. Sẽ rất tốt nếu chúng ta bước lùi một bước và nhìn suy xét về năng lượng của chính các cảm xúc ấy. Buốn là gì? Giận là gì?  Nhìn sâu không phài là nhìn  các câu chuyện  của  những cảm xúc ấy mà là nhìn xem những cảm xúc biểu hiện trong đầu óc và thân thể của chúng ta như thế nó là. Nghĩa là ta phải quan tâm tìm hiểu chính bản chất của xúc cảm.


Thiền sư người Mỹ Ajahn Sumedho đã chỉ  cho chúng ta cách tìm hiểu như thế này: vào giây phút nổi giận, hay sung sướng, ta chỉ ghi nhận: “Giận dữ là như thế này đây”, “Sung sướng là như thế này đây”. Cách tiếp cận cuộc sống tình cảm như thế khác với kiểu  chìm đắm trong sóng cảm xúc  hay bị cuốn theo tâm trạng không ngừng đổi thay. Để làm được việc này cần có chánh niệm, tỉnh giác, tập trung. 

Chúng ta cũng coi chừng không nên hiểu lầm cần phải đè nén cảm xúc hay gạt chúng qua một bên. Trong khi ngồi thiền, chúng ta hoàn toàn cởi mở đối với cảm xúc. Khi quán chiếu, chúng ta nên tự hỏi “Mình liên hệ đến cảm xúc này như thê nào? Mình hoàn toàn đồng nhất với nó hay  đầu óc mình đủ rộng để dung chứa các cảm giác giận dữ, đau khổ, vui tươi, thương yêu mà không bị ngập tràn?”.

Sunday, June 26, 2016

THỰC TẬP BUÔNG BỎ

Khi bạn thiền tập hãy đem sự chú ý trở lại với những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại: hơi thở, cảm thọ trong thân thể, một ý nghĩ, một cảm xúc, hay thậm chí là bản thân sự ý thức. Khi chúng ta ngày càng chánh niệm hơn và chấp nhận những gì đang diễn ra, chúng ta sẽ thấy rằng – trong khi thiền tập lẫn trong cuộc sống thường nhật – chúng ta ngày càng bị điều khiển bởi các lực xua đuổi và dính mắc. hai sức mạnh phần lớn chi phối cuộc đời ta. Trong quá trình thiền tập, chúng ta sẵn sàng quan sát bất kỳ cái gì có mặt, sống chung với nó nhưng không bị lôi cuốn theo. Chúng ta tập buông bỏ.

Trong một số nước châu Á có một loại bẫy để bắt khỉ rất hay. Người ta đục dưới đáy một trái dừa một khe nhỏ vừa đủ rộng cho con khỉ đút tay vào, nhưng nếu nó vẫn nắm tay lại mà rút ra thì không được. Rồi họ bỏ đồ ngọt vào trong trái dừa, cột trái dừa vào một thân cây để chờ con khỉ đến. Khi con khỉ chuồi tay vào trái dừa để lấy đồ ăn thì nó mắc kẹt. Vì sao con khỉ lại mắc bẫy? Đó là do sức mạnh của dục vọng và dính mắc. Điều mà con khỉ cần làm là buông bỏ đồ ngọt, mở lòng bàn tay, rút ra và thế là được tự do- nhưng rât hiếm khi con khỉ làm được vậy, Tương tự như thế. Thiền sư Nhật Bản Kosho Uchiyama, từ thế kỷ XII đã nói về  việc “mở lòng bàn tay của tâm trí”.

Một phẩm tính khác cần phát triền trong thiền tập là óc hài hước về tâm trí, cuộc sống và tình trạng bế tắc của con người. Óc hài hước rất cần thiết trên con đường tâm linh. Nếu bây giờ bạn chưa có óc hài hước thì cứ thiền tập một thời gian nó sẽ đến, vì khó mà quán sát tâm trí một cách liên tục và có hệ thống nếu như không tập mĩm cười. một hôm có người hỏi Sasaki Roshi là thầy có bao giờ đi xem phim không, thầy trả lời, “Thầy cho người ta phỏng vấn”.

Cách đây vài năm, tôi tham dự một khóa tu ờ Miến Điện với thiền sư Sayadaw U Pandita. Ngài là một vị thầy nghiêm khắc, và trong khóa tu mọi người đều giữ im lặng, đi đứng chậm rãi, và cố giữ đầu óc yên tĩnh. Đó là một thời gian luyện tập khá căng thằng. Vào bữa cơm, chúng tôi đi vào trai đường, xếp hàng yên lặng lấy thức ăn và chánh niệm từng động tác.

Một hôm, người đứng trước mặt tôi trong hàng đến cạnh bàn và mở nắp một nồi thức ăn. Khi anh ta đặt nắp xuống bàn thì làm rơi đảnh xoảng xuống sàn nhà. Ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi lúc ây là: “Không phải tôi”. Ý nghĩ ấy xuất hiện từ đâu nhỉ? Với chánh niệm, người ta  có thể mĩm cười trước vị khách không mời mà đến trong tâm.

Qua thiền tập, chúng ta bắt đầu nhìn thấy nhiều hoạt động của tâm trí, từ những ý tưởng kỳ quái cho đến những ý nghĩ và cảm thọ trong sáng. Chúng ta tập có mặt  mọi thứ đi qua trong tâm. Khi mình có thái độ chấp nhận thì trong lòng có một cảm giác nhẹ nhàng. Khi có thái độ nhẹ nhàng và chấp nhận chính mình thì ta cũng sẽ nhẹ nhàng và chấp nhận người khác. Chúng ta không còn vội vàng phê phán tâm trí người khác một khi  đã nhìn thấy rõ tâm trí của mình. Nhà thơ WH. Auden đã từng nói điều tương tự một cách dí dõm: “Hãy thương mến người láng giềng gian giảo bằng trái tim gian dối của mình”. Sự bao dung không có nghĩa chúng ta xem mọi chuyện như nhau.

 Chánh niệm giúp chúng ta chọn lựa một cách sáng suốt những gì nên vun trồng và phát triển, và những gì cần từ bỏ.

Cũng như các thấu kính hội tụ của một chiếc kính hiển vi  giúp ta thấy được sự vật vẫn  thường ẩn khuất. Một đầu óc tập trung mở ra cho chúng ta những tầng lớp kinh nghiệm sâu kín và các động thái vi tế của ý nghĩ và cảm thọ. Nếu không nhờ năng lực  tập trung này chúng ta chỉ thấy được bề mặt của sự vật. Nếu muốn có sự hiểu  biết sâu sắc, chúng ta cần thực tập chánh niệm, và tăng cường khả năng tập trung tư tưởng. Một trong những lơi dạy quý báu của Đức Phật là khẳng định rằng, chúng ta ai ai cũng làm được việc này.

Saturday, June 25, 2016

THỰC TẬP CHÁNH NIỆM

Chúng tôi có thể thực tập chánh niệm bằng cách đơn giản là theo dõi hơi thở. Thở vào, chúng ta biết rằng đang thở vào, thở ra, chúng ta biết là đang thở ra. Tuy đơn giản  là thế nhưng không dễ đâu. Chỉ sau vài hơi thở là chúng ta đã nhảy lên trên những chuyến tàu liên tưởng, trí óc ta ngược xuôi, cùng với bao nhiêu là kế  hoạch, hoài niệm, phê phán, và tưởng tượng. Đôi khi chúng ta như đang ở trong một rạp chiếu phim khi người ta thay phim quá nhanh, ấy thế nhưng trong phòng chiếu cả riêng mình thì chúng ta cư xử ra sao?

Thói quen lang thang của đầu óc ta rất mạnh, thậm chí cả khi những mơ tưởng này không mấy dễ chịu, và có lẽ không thực tế chút nào. Như Mark Twain đã từng nói, “Những điều tồi tệ nhất trong cuộc đời chưa bao giờ xảy ra với tôi”. Chúng ta cần rèn luyện tâm trí mình, quay lại với hơi thở, và đi lại từ đầu.

Khi tâm trí ta từ từ lắng dịu, chúng ta bắt đầu thể nghiệm một sự yên tĩnh, thư thái. Từ trạng thái yên tĩnh sâu xa, chúng ta mới cảm nhận về thân của mình rõ hơn, và cởi mở hơn với những cảm giác phát sinh. Thoạt đầu ta thường chống lại  các cảm giác khó chịu, nhưng thường chúng không tồn tại lâu. Chúng xuất hiện một lúc và ta ghi nhận đó là các cảm thọ khó chịu – rồi chúng biến đi để nhường cho một cảm thọ khác. Và thậm chí cho dù chúng có trở đi trở lại, chúng ta cũng đã bắt đầu cảm nhận được tính chất vô thường và trống rỗng của chúng và càng lúc càng ít lo sợ hơn khi thấy chúng.

Chúng ta cần thực tập thêm để ngày càng ý  thức  về các ý nghĩ và xúc cảm của mình, những hoạt động tinh thần chi phối  đầu óc, thân thể và cả cuộc sống của mình. Bạn có bao giờ ngừng lại để tự hỏi ý nghĩ là gì chưa? – không phải là xem xét nội dung của ý nghĩa mà là bản chất của chúng? Ít người thực sự suy xét “Ý nghĩ là gì? Hiện tượng này là gì mà xuất hiện lắm lần trong ngày đến thế, và chúng ta lại ít chú ý đến thế?”.

Việc không ý thức được ý nghĩ là gì lẫn bản chất của chúng ra sao đã cho phép ý nghĩ chi phối cuộc sống của chúng ta. Chúng bảo ta làm việc này việc nọ, các ý nghĩ điều khiển chúng ta như thể chúng ta  là đầy tớ của chúng.

Có lần khi tôi đang giảng dạy ở Bouver, Colorado, tôi đang ngồi một cách thoải mái trong phòng. Các ý tưởng xuất hiện rồi biến đi, chợt một ý nảy sinh trong đầu óc tôi và phán rằng: “Bây giờ mà ăn pizza là thú vị lắm đây”. Thật ra tôi không đói, nhưng ý nghĩ này nhấc tôi ra khỏi ghế, đẩy tôi ra khỏi cửa, bước xuống cầu thang, nhảy vào xe, lái đến chỗ bán pizza, trở lại vào xe, lên cầu thang, trở về phòng và cuối cùng ngồi xuống ăn. Cái gì thúc đẩy một hoạt động như thế? Chỉ bắt đầu là một ý nghĩ.

Dĩ nhiên cũng chẳng có gì sai trái trong việc chạy đi mua bánh pizza, thế nhưng điều đáng để ý là  cuộc sống của chúng ta bị các ý nghĩ điều khiền đến mức độ nào. Vì mình không để ý nên nó có quyền lực rất lớn. Nhưng khi chúng ta chú ý, chúng ta quan sát chúng từ lúc chúng phát sinh rồi tan biến, chúng ta bắt đầu thấy rõ bản chất trống rỗng của chúng. Chúng nổi lên như những bong bóng năng lượng trong đầu óc hơn là sự hiển lộ cụ thể của một bản ngã.


Không giống như lão phù thủy đầy quyến phép núp sau bức màn trong truyện Lão Phù thủy xứ Oz, sức mạnh mà các ý nghĩ đó do chúng ta trao cho, tất cả ý nghĩ đến rồi đi. Chúng ta có thể tập chánh niệm về chúng mà không bị lôi cuốn theo sự lang thang của tâm trí. Với chánh niệm chúng ta có thể thực hiện  được sự chọn lựa khôn ngoan: “Ừ, mình sẽ hành động theo ý nghĩ này: không, buông bỏ ý nghĩ đó đi”.

Friday, June 24, 2016

Nuôi dưỡng Chánh Niệm

1/ Lập một thời khóa tọa thiền mỗi ngày:
Ðây là một phương cách để trưởng dưỡng công phu thiền định thường nhật, đồng thời cũng giúp ta kiểm tra những chu trình của nó một cách dễ dàng. Hãy thử bỏ ra một hoặc hai tháng với một cuốn sổ tay để bên cạnh chỗ mình tọa thiền rồi viết vào đó, một cách trung thực, thời gian tọa thiền cùng tất cả những gì xảy ra trong tâm mình. Chẳng hạn: Ngày X tháng Y, ngồi được một giờ đồng hồ, phóng tán hướng ngoại hoặc trong sáng định tĩnh, có hoặc không những chấn động cảm xúc...

Cuối thời gian đã định, hành giả đọc lại tất cả để đánh giá chính xác được từng bước công phu của mình rồi tự đưa ra những hướng đi thích ứng. Chánh niệm sẽ qua con đường này mà được nuôi lớn.

2/ Tìm một ấn tượng để tập trung tinh thần (tạo thói quen tỉnh thức để tỉnh thức trở thành thói quen):
Hãy chú ý vào một hoạt động thường nhật nào đó mà ta thường thực hiện trong sự vô tâm rồi đưa hết chánh niệm vào đấy. Ta có thể lấy việc uống trà, tắm rửa, hoặc lái xe để làm bài thực tập bằng cách dành ra đôi ba phút trước khi bắt đầu làm việc đó. Công việc sẽ được thực hiện trong sự nhẹ nhàng, cẩn trọng và trở thành một công án thiền định tuyệt vời về thực tại, những gì đang xảy ra. Làm thế có nghĩa là hành giả đã mở ra tất cả cánh cửa lòng mình với vạn vật, với mọi sự. Ta có thể nuôi cái cảm giác rằng chính Ðức Phật đang từng bước có mặt bên cạnh cuộc tu của mình như một sự gia trì thiêng liêng.

Ở đây, ta thử sống trầm lặng và tỉnh thức như một người Nhật Bản uống trà đúng theo nghi thức Trà Ðạo, nhưng không dừng lại ở riêng một hoạt động nào mà là mọi hoạt động, luôn khi và mọi nơi. Công phu thực tập có thể kéo dài trong một tuần hay một tháng. Vấn đề thời gian không quan trọng, miễn sao chánh niệm của ta ngày một lớn mạnh thì thôi.

3/ Thực hiện một kiểu sống giản dị tự nguyện:
Cố gắng bỏ ra đôi ba ngày thử nghiệm một nếp sống không bị chi phối bởi một sinh quan văn minh hay tiện nghi nào để hòa mình với thiên nhiên. Trước hết hành giả ngồi lại trong im lặng rồi cố nhớ lại tất cả những gì là mật thiết trong đời sống bản thân bằng cách đưa vào tư tưởng mọi thứ mình đã sống qua: công việc, quan hệ xã hội, gia đình, nhà cửa, các hoạt động nổi bật, các thứ mình sở hữu được, những mục tiêu để vươn tới trong nay mai hoặc đời sống tinh thần hằng ngày...

Cứ mỗi một hình ảnh đi qua trong tư tưởng, hành giả hãy tự đặt cho mình một câu hỏi: Có phải nó chỉ khiến cho ta thêm rắc rối cuộc đời hay không?
Hành giả lại tự trả lời, vẫn trong thinh lặng và một cách trung thực sau khi tự phản tỉnh, soi rọi. Sau đó, nên có thêm một câu tự vấn khác: Nếu mọi sự được giàn xếp đơn giản hơn thế thì có phải là ta sẽ được hạnh phúc hơn không?


Mục tiêu của đời sống tinh thần phải là giây phút khám phá ra sự tự do, là sự hài hòa tích cực với cuộc đời chung quanh và nhận ra được bản chất thật sự trong sự hiện hữu của chính mình. Nếu cái cần thiết cho đời sống của chúng ta là việc giản dị hóa mọi sự và ta cũng đã tìm thấy được con đường để thực hiện nó thì hãy biết giữ nó lại cho mình như một hành trang để bước vào hành trình chuyển hóa, thăng hoa tâm linh.

Thursday, June 23, 2016

Một căn bản khác cũng là tối yếu cho đời sống thiền định là sự nghiêm trì ngũ giới,

một quy cách sinh hoạt có ý thức. Chỉ riêng công phu giữ mình theo năm học giới này cũng là phần đóng góp quan trọng cho khả năng chánh niệm thường nhật. Nghi thức thọ trì ngũ giới rất đơn giản: có thể là sự phát nguyện trước một ông thầy hay chỉ riêng một mình tự lập tâm cũng được .

Theo nghi thức truyền thống thì người muốn chấp trì ngũ giới phải đọc bằng miệng từng câu thệ nguyện cho mỗi điều. Chẳng hạn như ở điều thứ nhất: "Tôi xin thọ trì học giới bất sát". Các học giới còn lại cũng thế. Chúng ta hãy học cách sinh hoạt theo tinh thần của ngũ giới. Vi phạm học giới nào ta cũng tự biết là mình đã bị lấm nhơ học giới đó rồi phát thệ trở lại. Mỗi học giới là một lời khuyên răn cho ta không xúc phạm tới chúng sanh khác và nhắc nhở ta một thái độ sống mẫn cảm, độ lượng hơn. Sức mạnh của năm học giới rất lớn. Nếu toàn thể nhân loại giữ được giới bất sát và giới không vọng ngữ thì chắc chắn một phần lớn tình hình toàn cầu sẽ được sửa đổi tốt đẹp nhơn nhiều.

Hãy sống theo tinh thần ngũ giới. Chính điều này là một chuẩn bị hết sức quan trọng cho đời sống tâm linh. Vi phạm các học giới cũng có nghĩa là ta đã tự gây trở ngại cho việc tu tập thiền định của mình. Vì vi phạm học giới nào cũng là một sự xúc phạm đối với tha nhân, mà đã như vậy thì làm sao ta có thể sống với một tâm hồn thanh thản, bình yên. Có giữ được ngũ giới một cách sống trong sạch ta mới có được sự giao hòa nhất định với thế giới xung quanh. Cứ mỗi học giới bị vi phạm là một ánh đèn tín hiệu báo cho ta biết về tình trạng nội tâm của mình. Nếu tự biết xét mình một cách nghiêm cẩn, ta sẽ biết được mình đã bị cái gì tác động xấu và cũng biết cả cách tự sửa một cách chính xác. Nói gọn lại, hãy trân quý ngũ giới như một phương tiện tuyệt hảo để sửa đổi bản thân và hoán chuyển thế giới.

Chúng ta thường có khuynh hướng thích rao giảng hay trao đổi sở tri của mình với người khàc. Ðiều đó dĩ nhiên rất tốt nếu đề tài có nội dung quan hệ giáo lý nhưng vấn đề còn đòi hỏi ta phải biết chú ý lưu tâm đến hoàn cảnh thực tế nữa. Không phải ở đâu ta cũng có thể đàm đạo tùy thích. Thật ra chúng ta nào cần thiết phải khuyến dụ hay kêu gọi đức tin của người khác. Thay vào đó, ta chỉ nên thích nghi với điều kiện chung quanh và như vậy là ta đã tạo được cơ hội cho người khác chấp nhận mình. Nói vậy có nghĩa là chỉ nên nói với ai thật trong lòng muốn lắng nghe ta nói. Ta hãy là một "Ðức Phật", không nên dừng lại ở vai trò một "người Phật giáo". Hãy để thái độ sống của mình nói lên Phật pháp tốt hơn là nói bằng ngôn ngữ chữ nghĩa. Bởi nên nhớ rằng con người ta không chỉ quan hệ với nhau qua ngôn ngữ mà còn qua sự cảm nhận lặng lẽ từ tâm hồn nữa. Thiên hạ sẽ học hỏi ở chúng ta những gì chúng ta sống chớ không phải qua những gì chúng ta nói.

Một hôm có vài thiền sinh đến hỏi một vị đại sư người Tây Tạng lừng danh rằng họ phải làm sao để có thể hướng dẫn con cái mình có được một đời sống tâm linh sâu sắc. Vị Lạt Ma này đã trả lời rằngmỗi người có một duyên nghiệp riêng, các bậc cha mẹ không thể cưỡng cầu trong việc bắt buộc con mình phải đi theo một hướng sống nào đó một cách hoàn toàn như ý được. Tuy nhiên tấm gương sống tình thương và trong sáng của cha mẹ sẽ ít nhiều tác động đến đời sống tinh thần của con cái. 

Chúng ta có thể bảo ban lũ trẻ phải biết thương người nhưng trong khi đó chúng ta lại không làm đúng được những gì mình vẫn nói thì những lời khuyên răn kia không thể có hiệu quả. Nói chung, hãy học cách đưa hết tâm tư, ngôn ngữ và hành động của mình vào thành một, rồi cứ thế phát triển các đức tánh như tình thương và sự tỉnh thức cho tới khi tất cả những thứ đó trở thành một nếp sống căn bản thì mọi chuyện trên đời sẽ là những cơ hội tốt cho ta tu tập: từ tiếng khóc của trẻ con đến những cơn đau nhức trong giờ tọa thiền hoặc thậm chí đến việc sinh ly tử biệt cũng thế.


Thật là ý nghĩa nếu trong mọi quan hệ đối giao ta đều có được thái độ bao dung trước tất cả vạn loài. Hãy biết nghĩ về người bằng trọn vẹn trái tim độ lượng của mình và thật lòng mong mỏi cho tất cả luôn bình an, chẳng hạn một sự tự do.
Sự cô đơn luôn làm cho cuộc tu của chúng ta trở nên vất vả hơn, nó sẽ là những hành trang quan trọng cho cuộc hành trình đó. Ta có thể sống qua các thiền khóa dưới sự hướng dẫn của những thiền sư nhưng rồi ở đoạn cuối của hành trình này ta vẫn chỉ còn lại một mình để ta làm thầy cho chính ta và từ giai đoạn tự tu này ta mới có thể khám phá được cái Phật pháp giải thoát ở chính bản thân mình.

Một vị sư người phương Tây trước khi trở về Mỹ, đã đến nói chuyện với một vị đại đức già người Anh, vị này vốn là một người đã từng có nhiều chuyến đi qua lại giữa Châu Âu và Châu Á. Nhà sư trẻ kia muốn xin được đôi lời nhắc nhở để chuẩn bị cho ngày tháng tu hành ở phương Tây sau này của mình. Vị đại đức người Anh chỉ nói mấy câu ngắn gọn:
- Tôi chỉ có thể khuyên sư một điều thôi: Khi đang có mặt tại một trạm xe buýt, hãy thấy rằng chiếc xe buýt không hề có dính líu tới mình. Dù có là người đứng đợi xe, sư cũng đừng để mình phải bận tâm, cực lòng vì nó. Lúc nào cũng có một chuyến xe buýt cho sư mà!
Không có gì để cho ta phải học tốc, cấp tập, vội vã. Ta phải biết sống trọn vẹn với từng giây phút thực tại để khám phá chính mình. Qua nếp sống này, đời sống của ta sẽ được hoán chuyển tốt đẹp hơn. Và để thực hiện được như vậy, ta phải tự có cái khả năng đối diện cấp thời mà điều này xem ra không đơn giản tí nào.

Tỉnh thức, mẫn cảm, can đảm và sáng suốt là những giá trị tinh thần tự chứng, không thể có được từ một sức mạnh ngoại tại nào cả. Chúng được thành tựu từ bên trong nội tâm mỗi người, thông qua từng vận động của bản thân từ ngữ ngôn đến hoạt động. Những pháp tánh đó là nguồn năng lực chuyển hóa nội dung chúng ta, là những nguồn năng lực không gì có thể thay đổi được, bởi chúng lúc này đã là bản chất thật sự của chúng ta rồi.

J. K.

Wednesday, June 22, 2016

Chánh niệm có một vai trò rất quan trọng trong đời sống,

nó giúp ta nối kết mối tương giao với mọi người qua sự phát hiện ở họ những giá trị đức tính. Một hôm, tôn giả Ananda đã thưa với Ðức Phật:
- Bạch Thế Tôn, theo con, một nửa đời sống phạm hạnh được thiết lập trên tình pháp hữu.
Và Ðức Phật đã trả lời:
- Không phải chỉ là một nữa đâu, Ananda, ta nói rằng toàn bộ đời sống phạm hạnh được thiết lập trên đạo tình pháp hữu với nhau thông qua sự khéo tu tập và một đạo lộ toàn thiện.

Thái độ sống hội nhập và san sẻ với tha nhân là một vấn đề vô cùng quan trọng. Làm sao chúng ta có thể chối bỏ tất cả tương giao trong đời sống, nhất là trong thế giới hôm nay, một thế giới luôn vang động những thông điệp kêu gọi về vô vàn vấn đề mà ta không thể làm ngơ? Một trong những quyền thiêng liêng của tất cả Tăng ni Phật giáo là được sống với tư cách một thành viên của giáo hội. Trong khi đó, dù cũng là những Phật giáo đồ nhưng hàng cư sĩ tại gia không có được cái tạm gọi là ân sủng đặc biệt này. Chính nhờ ý thức rằng mình đang góp mặt trong một cộng đồng, dù chỉ với những quan hệ mang ý nghĩa tinh thần, đạo tâm và đạo lực của chúng ta sẽ được cũng cố. Ý thức đó sẽ được trợ lực cho chúng ta rất nhiều, nhất là những khi trong cuộc tu có vấn đề. Tóm lại hình ảnh của cộng đồng sẽ luôn tiếp sức cho chúng ta trong từng bước tu hành.

Từ những vấn đề trên, ta có thể nghĩ tới một hình thức tu tập mang tính biện pháp cho những lúc cần thiết, đó chính là tọa thiền tập thể. Nếu không tìm thấy một thiền đường nào, thì ta vẫn có thể ngồi thiền một mình trong một tập thể Phật giáo đồ trong giờ phút thích hợp, kể cả trường hợp đó không là những thiền sinh. Càng gần gũi nhiều với những tâm hồn hướng nội, có chiều sâu tâm linh thì hành giả càng được tiếp sức một cách hiệu quả.

Và cũng với tinh thần đó, mỗi năm ta nên dành thời gian tham dự các thiền khóa để có cơ hội được sống yên lặng và nâng cao công phu thiền định. Phải nói rằng các thiền khóa luôn có ý nghĩa quan trọng đối với hành giả. Qua đó, ta sẽ có điều kiện sống tiếp cận, hòa mình với thiên nhiên hơn. Bất luận ở thiền viện hay nhà riêng, nếp sống im lặng ở thiên nhiên, núi rừng hay đại dương, sẽ nuôi dưỡng khả năng thiền định của hành giả ngày một tăng tiến hơn. Cho nên không phải do tình cờ mà hôm nay đột nhiên có rất nhiều trung tâm thiền định ồ ạt mọc lên khắp nơi trên thế giới.

 Ðó là những trú xứ cho ta đi tìm sự yên lặng mà nếp sống yên lặng có giá trị như thế nào đối với thiền định thì tất cả chúng ta đã rõ. Trong khi có nhiều người vẫn còn đang cật lực mày mò những hang hốc của ý thức, mỏi mắt ngóng đợi từng bước tiến của trình độ thiền định thì ta hãy hiểu rằng chỉ cần sự yên lặng lắng nghe là đã quá đủ. Chính nó là toàn bộ đời sống thiền định của chúng ta. Chắc chắn sẽ có lúc chúng ta sẽ nhận ra cái mình cần nhất đời chỉ là một không gian thật tĩnh lặng để thiền định, để thoát khỏi cái vòng quay lẩn quẩn của những bận rộn gia đình, những quan hệ vớ vẫn với xã hội, cộng đồng, tập thể chung quanh. 

Tức là trong đời sống hướng nội, chúng ta mỗi lúc chỉ sống hết mình với một vấn đề, một cảnh giới. Nói vậy cũng gần như là chúng ta luôn phải có một sự khu biệt nếu không muốn nói là chọn lựa thật kỹ lưỡng con đường mình phải đi, thậm chí đó là sự chọn lựa tối thiểu giữa các oai nghi (tư thế) thiền định rồi đằng sau đó là những cẩn trọng cần thiết trong mọi sinh hoạt và quan hệ thường nhật. Mà để làm được điều này ta thường chỉ nhận được sự tiếp sức từ các thiền khóa, thời gian lý tưởng để sống thinh lặng. Từ đó chúng ta mới có thể cầm lấy chánh niệm bước vào tất cả những ngõ ngách của đời sống một cách an toàn và ý nghĩa hơn.

Ngoài ra, nếp sống đó còn giúp ta từng bước khám phá đời mình và thấy được những gì cần được lưu tâm, ý thức. Những cái đó bao gồm tất cả công việc, vận động sinh lý, quan hệ đối giao và cả khả năng vị tha, hào sảng của bản thân. Hãy nhớ lại điều chúng ta đã biết, là tất cả nghịch cảnh khách quan hay nội tại đều luôn có thể mang ý nghĩa nuôi lớn đời sống tâm linh của mỗi người. 

Có điều là ta phải luôn biết đón nhận, xử lý và vận dụng chúng bằng tất cả sức mạnh của chánh niệm một cách đúng mức, hợp lý y cứ trên tầm vóc thực tế của chính mình. Tự nhiên, mọi hoạt động lớn nhỏ của ta từ lúc này sẽ được điều hành và thăng bằng với sự trợ lực của các giá trị nội tâm như điềm tĩnh, trong sáng, tập trung và thoải mái. Tuy nhiên ta cũng phải biết rằng nếp sống hướng nội như trên vừa trình bày không hề không có nghĩa là cắt đứt một cách vô lối tất cả sinh phong dung dị của một người bình thường. Cho đến cả những hành giả thâm niên có nhiều sở đạt cũng phải cần tới một trí nhớ tối thiểu về những dữ kiện mang ý nghĩa nối kết với đời thường mà mình đã đánh mất một cách tai hại. Chính điều này giúp ta hạn chế những cách ngăn, giữa đời sống nội tâm với đời sống thực tế. Cứ mỗi hoạt động đều có thể dạy ta học được những quy luật của vạn hữu. 

Chẳng hạn ta có thể học hỏi về từng ước vọng của bản thân, những kinh nghiệm nếm trải đời sống qua chính gia đình hoặc bằng cách theo dõi hơi thở và các cảm giác sinh lý. Sự tự do không giới tuyến và một tình thương vô bờ mà Ðức Phật đã có được thật ra không phải là điều bất khả đối với chúng ta. Ðôi ba năm sống thiền hết mình trong những trú xứ thích hợp, chúng ta sẽ ít nhiều cảm nhận được hai giá trị đó. Ðiều phải nhớ là trong mọi lúc, đối với chúng ta chỉ có một vấn đề thôi đó là "tại đây và bây giờ". Chánh niệm sẽ luôn dẫn ta đến không gian và thời gian đó thôi, những gì luôn vô thường, biến đổi một cách tất định.


Một khía cạnh khác có ý nghĩa giúp ta phơi mở tâm hồn một cách trọn vẹn đó là sự hàm dưỡng một trái tim hào phóng, độ lượng. Hãy nghĩ nhiều về tha nhân, từ gần tới xa và bắt đầu học cách ban phát những gì mình có. Khi lòng hào sảng đã thành ra một phản ứng tâm lý tự nhiên thì coi như hành giả đã sở hữu được nó rồi. Chúng ta có thể tự tìm lấy những cơ hội giúp đỡ người khác bằng tất cả khả năng một cách hợp lý, có thể là của cải hoặc công sức. Hãy luôn đặc biệt chú ý nội tâm chính mình khi nó bắt đầu có những dấu hiệu chùn bước hay e ngại trong mối quan hệ mang tính hy sinh này để ta kịp thời tu chỉnh một cách thích ứng. Dần rồi theo thời gian, hành giả sẽ có được niềm vui tế nhị trong thái độ sống hào sảng của mình, và chính điều này sẽ khơi mở, tác động tích cực đến cuộc tu của chúng ta qua rất nhiều khía cạnh đạo lực khác.

Tuesday, June 21, 2016

Có lần một số các bà tín nữ Triều Tiên đến viếng một thiền viện tại Mỹ và mang theo thức ăn cùng bông hoa để cúng Phật.

 Có lẽ do không có hoa tươi nên các bà đã mua các nhánh hoa bằng nhựa. Tất cả đều được đem cắm lên bàn Phật ngay trước mặt đoàn người hành hương, nhưng rồi sau khi phái đoàn vừa rời khỏi thiền viện thì các thiền sinh Mỹ đã đem vất hết mấy cành hoa bằng nhựa đó. Vị thiền sư viện chủ thấy thế đã bảo họ nhặt chúng lên và đem vào chưng lại ngay ngắn trên bàn Phật. Ngài nói với các thiền sinh người Mỹ rằng thật ra mấy nhánh hoa kia không phải bằng nhựa mà chính nội tâm của họ bằng nhựa thì đúng hơn. Bởi theo Ngài thì các thiền sinh chỉ biết nghĩ tới cái đẹp thông thường mà quên đi tấm lòng tín thành trong sạch đã được gửi gắm trên các cành hoa bằng nhựa ấy.

Chúng ta ai cũng có thể dễ dàng bị vướng kẹt trong những toan tính, đề án, phương hướng này nọ của chính mình để từ đó, tầm nhìn của mỗi người về thực tại càng chật hẹp, tù túng hơn. Chúng ta không thể nào có được cái nhìn bao quát và trọn vẹn cái toàn cảnh của một bức tranh khi chỉ biết dán mắt vào một chi tiết nhỏ trên đó.

Chuyện xưa kể rằng có một con chồn rất khôn ngoan kia đã tự biết đào những chiếc hố để bẫy mồi. Nó thích thú với mấy cái hố đó lắm, vì chúng là công trình sáng kiến của nó. Thế rồi một hôm tình cờ có người thợ săn vào rừng làm hố bẫy thú và anh ta đã gài bẫy ngay trên một cái hố của chú chồn kia. Như thường lệ, chồn vẫn tới thăm bẫy của mình và lần này thì nó lâm nạn ở chính cái bẩy mà mình đã đào. Nó đau đớn giãy giụa và đúng ra có thể phá tung cái bẫy tai ác kia nhưng vì cứ nghĩ tiếc công trình của mình nên phút cuối nó đã bị người thợ săn tóm lấy. Chúng ta thường khi cũng giống con chồn tinh khôn này vậy: luôn dễ dàng trở thành nạn nhân cho chính cái thông minh của mình!

Quả là vô ích và buồn cười nếu chúng ta chỉ biết nhắm mắt tuân theo những lề thói, định kiến đã tự sẳn trong đời sống để rồi buông xuôi, phó thác tất cả tâm tư, tình cảm của mình theo khuôn thước đó như một cái máy. Ta phải học được cách thấu suốt và từ bỏ chúng, một nếp đời tẻ nhạt và chết cứng, bởi mục tiêu của đời sống phải luôn là một cái nhìn quán triệt và sinh động, tươi tắn, bén nhạy.

Chúng ta rất cần tới khả năng bén nhạy bởi vì có những lúc chính nó giúp ta quan sát tường tận mọi chi tiết trong từng cảm nghiệm về thực tại; rồi cũng chính nó đem lại cho ta cái nhìn phơi mở và tỉnh thức mọi sự. Có lần đó, một đàn thiên nga bay ngang qua thiền thất của đại sư Suzuki. Nhìn chúng, đại sư nhắc nhở các môn đệ:
- Người ta thường đánh bắt các loài chim trời để về nuôi trong nhà mình. Mấy con thiên nga này đẹp quá nên ai cũng thích bắt nuôi chúng. Các ngươi phải tu tập thế nào để thấy được mình với đàn thiên nga kia là một, bởi trong đời sống, chỉ nhìn thôi vẫn chưa đủ,ta còn phải biết cảm nhận nữa. Hãy lặng nhìn các loài chim bay đi rồi lắng nghe tiếng hót, tiếng kêu của chúng bằng một tâm hồn vô phân biệt. Có thấy chúng với mình chỉ là một thì chúng ta sẽ thấy không cần thiết để bắt giữ chúng lại, bởi chính mỗi người đã là vạn vật, là toàn bộ thế giới rồi...

Có buông tay xả bỏ những gì mình vẫn ôm ấp thì chúng ta mới có thể nhìn thấy các pháp đúng với các bản chất của chúng. Thật ra trong tự bản chất, không có cái gì là đơn giản hay phức tạp cả mà vấn đề chỉ nằm ở cách nhìn của chúng ta, trong khi chúng ta lại thường xuyên thiếu tỉnh thức và chánh niệm. Cái đẹp nhất trên đời này vốn nằm trong chính nội tâm mỗi người và nó là cái gì đó thật đơn giản. Chúng ta không thể tìm thấy cái đẹp với một thái độ cưỡng cầu, gán ép, áp đặt hoặc đi xông xáo lùng sục một cách nông nổi. Trong khi đó, với môt tâm hồn thật sự bình lặng thì cái gì quanh ta cũng đều là những thứ tuyệt vời cả, thậm chí đó chỉ là những sự vật thông thường nhất: một bóng nắng xiên khoai trong chiều tà, một nụ cười nồng ấm, một phong thái mời trà của ai đó.
Ta sẽ bổng nhiên thấy được nét đẹp tinh khôi và sung mãn của đời sống, cái gì cũng mới lạ và độc đáo, mỗi khoảnh khắc là một cuộc đời. Rồi từ đấy ta cũng thấy luôn mỗi mỗi phút giây biến hoại của vạn hữu. Tất cả khía cạnh sinh diệt của chúng đối với ta lúc này chỉ là một vòng tuần hoàn hết sức tự nhiên không cần minh chứng nữa.

Trình độ cảm nghiệm thực tại luôn phản ảnh chính xác khả năng tỉnh thức của chúng ta. Càng bị đa đoan và thiếu độ lượng thì khả năng cảm nhận của ta càng hạn chế. Rất nhiều học thuật của Á Châu đã đặt nền tảng trên quan điểm này. Chẳng hạn đối với các nhà danh họa chuyên vẽ tranh sơn thủy của Trung Hoa. Ðể có được một bức tranh ra hồn thì họ trước hết phải bỏ ra một thời gian dài tĩnh mặc để chuẩn bị tư tưởng. Một khi tâm trí các vị đã thật sự hòa nhập được với đề tài của bức tranh mình muốn vẽ rồi, thì đây chính là lúc họ bắt tay vào mài mực, cầm cọ và phóng bút với tất cả tâm hồn.

Ðem được tinh thần trên đây vào đời sống thường nhật quả là tuyệt vời nhưng ta dĩ nhiên phải thực hiện sao cho hợp lý và thực tế. Ðể làm được điều đó, ta có thể tạm thời vận dụng một vài phương pháp tương đối quan trọng sau đây mà ý nghĩa đặc biệt của chúng là nhắm tới sự tỉnh thức thường trực.

Phương pháp đầu tiên là cố tập luyện tư thế tọa thiền tức khả năng ngồi lâu, ngồi yên và vững chãi. Ðây là một trong những công phu quan trọng nhất mà ta có thể thực hiện mỗi ngày. Khả năng này không chỉ là một thao tác trui rèn nghị lực thiền định mà còn là một phần nhân cách tối yếu cho người hành giả. Nó cho ta cái thời gian để im lặng, lắng nghe chính mình và nối kết các giá trị tâm linh khác của bản thân. Thế giới này, theo một cách nói đặc biệt, chẳng cần phải thêm cái gì nữa. Cái nó cần chính là sự cắt giảm, sự bớt đi: sự bớt đi những tham đắm, sự bớt đi những âu lo, hiềm khích, kiêu ngạo. Từng phút giây tọa thiền là từng thời gian để hành giả gội rửa nội tâm khỏi khỏi các niềm thống hối trong sự tĩnh lặng, phơi mở chính lòng mình ra để hiểu biết, đón nhận và tìm thấy sự bằng an cho tâm hồn. Với một sự khổ luyện đúng mức, tư thế tọa thiền sẽ giúp ta dễ dàng kiểm soát các hoạt động của mình trong đời sống thường nhật. Và hãy ngồi với một tinh thần sống vô ngã, chúng ta có thể giao hòa với tất cả thực tại đi qua lòng mình và như vậy công phu tọa thiền của chúng ta sẽ là một tặng phẩm cho tất cả tha nhân có ý nghĩa chân thành nhất.
Hãy cố gắng tọa thiền mỗi ngày hai lần.

 Quy định này sẽ là một thời khóa rất tốt để ta sống trọn vẹn với mọi thời gian. Buổi tọa thiền ban sáng sẽ đem lại cho ta một nhịp dộ sinh hoạt thăng bằng cũng như khả năng tỉnh thức thường trực trong suốt một ngày. Còn buổi tọa thiền ban chiều sẽ giúp ta buông thả hết tất cả những gì nặng nề còn bị tồn đọng sau một ngày cực lòng đối diện với đời sống, đồng thời cũng giúp ta ổn định được thân tâm cho trở nên yên tỉnh, thư thái hơn. Nếu khả năng cho phép, hành giả hãy thử ngồi thiền hai giờ đồng hồ trong một ngày. Còn như không được vậy, thử bắt đầu thực hiện mỗi buổi tọa thiền khoảng nửa giờ cũng được. Nói chung, cuộc sống thiền định luôn đòi hỏi chúng ta phải tự biết đưa ra cho mình một nền nếp căn bản để sống và nương theo đó như một cẩm nang để cuộc tu khỏi phải rơi vào tình trạng nửa vời!

Chính vì việc tọa thiền là một công phu mang tính trường kỳ và thực dụng nên ta không thể có một quan niệm cứng nhắc và máy móc về nó, chẳng hạn một quy định vô lối nào đó. Ta cũng hiểu rằng ai cũng luôn dễ dàng mắc phải một hay nhiều trở lực trong từng ngày của đời sống thiền định: một cơn buồn ngủ hay tình trạng bù đầu bởi quá nhiều bận rộn vẫn luôn đợi sẳn phía trước. Ðầu ngày hay cuối ngày bất luận, ta dễ dàng bị tình trạng rối tung đầu óc và căng thẳng sinh lý cho những lo toan vướng vít. Trong tình trạng đó, nếu chỉ xem việc tọa thiền là một thao tác của thời khóa biểu thì ta sẽ không tài nào xử lý, giàn xếp nổi nội tâm của mình - đặc biệt là trong một thời gian dài và phải đối đầu với quá nhiều phức tạp. Công phu tọa thiền không phải là cái hình thức ép buộc trong từng thiền khóa ngắn hạn. Nó là cái thời gian để ta thư giản sinh lý và quân bình, ổn định tâm lý. Bất cứ khi nào cần tới sự tập trung để giàn xếp nội tâm thì thiền định luôn là liệu pháp cần thiết, và nếu với một tình trạng sinh lý bất ổn hay một nội tâm rối bời thì dù có vận dụng một tư thế tọa thiền nào cũng đều là vô hiệu cả. Ngược lại, trong tình trạng tâm sinh lý bình ổn, chỉ với sự lắng nghe hơi thở và đón bắt từng cảm nhận của sinh lý ta có thể khám phá thực tại và tìm thấy mối tương quan thật sự của mọi vận động thân tâm.

Việc tọa thiền lạ lùng lắm. Có lúc ta thấy nó thật dễ dàng nhưng cũng có khi lại gây cho ta không ít khó chịu, phiền phức. Chẳng hạn mới bắt chân vào để ngồi thì dường như bao nhiêu chuyện trên đời cứ đổ xô về như thác lũ. Trong trường hợp đó, hãy giàn xếp nội tâm mình đã, đừng nản lòng hay tỏ ra bất lực rồi phí mất một ngày. Nếu tình trạng này xảy ra vào lúc ta sắp đi ngủ thì cũng vẫn cố gắng giải quyết nó bằng cách ngồi ngay xuống bên chân giường hoặc một chỗ thích hợp nào đó trong tối thiểu năm phút. Ðừng bao giờ tự cho phép mình an lòng, thỏa mãn đã ngồi đủ thời gian tọa thiền trong thời khóa của một ngày. Ðôi khi ta chỉ cần một hai phút là đã quá đủ rồi, miễn sao thân tâm được ổn định là được. Ðiều vừa nhắc tới trên đây là một nhắc nhở quan trọng cho tất cả hành giả.

Ðể việc tọa thiền được thực hiện thuận lợi, việc cần thiết là ta phải có được một không gian riêng tư thật thích hợp mà ở đây có thể là một căn phòng hay một góc giường ngủ. Tốt nhất nên có một tọa cụ hay một chiếc ghế thoải mái để ngồi. Và nếu cảm thấy cần thiết, ta cũng nên an vị trước mặt mình một pho tượng hoặc bức ảnh Phật hoặc bất cứ môt thứ trang trí nào đó khả dĩ khơi gợi cho mình những tư tưởng tích cực. Bên cạnh đó, việc có thêm đôi ba quyển kinh tâm đắc nhất để đọc lúc cần thiết cũng là một điều hay, chẳng hạn như giúp ta ôn tập kiến thức Phật pháp và tiếp sức cho tinh thần thiền định.

Bên cạnh tư thế thiền tọa, tư thế kinh hành cũng thường trực của hành giả. Trước giờ tọa thiền nên dành ra chút thời gian để đi kinh hành để ổn định tâm sinh lý, đó là chưa kể đến những giờ kinh hành đặc biệt trong một ngày. Chúng ta thường mất nhiều thì giờ cho những vọng tâm ảo tưởng. Có thể nói 90% những ý nghĩ thường nhật của mỗi người là vô ích, phí phạm, và như vậy ta chỉ còn lại rất ít những tư tưởng có ý nghĩa. Người hành giả phải tự biết đình chỉ những gì không thật sự cần thiết. Trong lúc kinh hành, ta chỉ cần biết "Ði là Ði", cảm nhận nó một cách hết mình. Thiền định trong tư thế kinh hành rất dễ thực hiện, ở bất cứ nơi đâu-lúc nào-làm gì, ta cũng có thể tu tập.


Ta đã thiền định trong tư thế ngồi và đi thì cũng có nghĩa là trong từng bữa ăn, ta vẫn có thể thiền định. Ta ăn uống trong sự tỉnh thức qua từng thao tác lớn nhỏ trên bàn ăn, tỉnh thức khi ngồi trước những món ăn quen miệng. Hãy cố gắng ăn uống trong im lặng, một cách thong thả chậm rãi và chánh niệm. Và nói thật gọi là hãy ăn từng trái táo với một sự cẩn trọng, chuyên chú mà ta vẫn vận dụng như ta đang đối diện với toàn bộ đời sống.

Monday, June 20, 2016

Sống đơn giản, chỉ là biết nhìn thẳng vào những gì đang xảy ra trước mắt mình.

 Một vị Thiền sư kia lúc đang hấp hối, đã nhắc nhở học trò của mình:
- Ðừng để cái cổ của mình, phải gánh lấy cái đầu ngộ nhận và trong từng giây phút nên lưu tâm đến mỗi bước chân một cách cẩn thận!

Câu nói của Thiền sư đó đã nói hết những gì cần nói, cần nghe và cần thực hiện. Chúng ta có thể xem cuộc tu của mình là một quá trình làm thăng hoa các cảm xúc. Nội dung trọng điểm của các học giới có thể được gọi là thái độ cảm xúc của mình với môi trường sống chung quanh: Tôn trọng và yêu thương tất cả mọi loài. Thiền Ðịnh cũng là một nếp sống cảm xúc: Chú hướng và điều chỉnh nội tâm để lắng nghe cái mà Kabir vẫn gọi là "âm vang từ những kiềng chân trong từng nhịp đi của các côn trùng". Còn trí tuệ, nếu cần cũng là những cảm xúc về từng vận động và sự vô thường liên tục của chính mỗi kinh nghiệm tự bản thân.

 Tình thương và trí tuệ chỉ đến từ sự u mặc cùng với một khả năng mẫn cảm của tinh tế của nội tâm bởi vạn sự, vạn vật trên đời đều có thể dạy cho ta học lắm điều hay nếu ta tự có được khả năng cảm nhận từng thứ. Trong mỗi phút giây đi qua, vạn pháp luôn sinh diễn nối đuôi nhau dưới sự điều hành của các quy luật vận động. Mỗi khoảnh khắc là một bài học cho ta về định lý vô thường, vô ngã của vạn pháp. Chỉ cần biết ngồi lại lắng nghe, ta có thể học hỏi được lắm điều từ những ba động nhỏ nhiệm, tinh tế của thân tâm trong hình thức các dòng tư tưởng và cảm xúc. Từng vận động, đổi thay của nội tâm là từng lời mặc khải cho thiền định.

Ta sẽ tìm thấy khuôn mặt thật của đời sống thông qua những công phu khám phá từng khía cạnh của nó trong từng ngày. Trí tuệ nội quán có thể được thăng hoa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mọi tình huống tốt xấu đều khả dĩ góp phần làm sâu sắc trí tuệ cũng như những cảm nhận tuyệt vời của ta về thực tại.

Một điều hết sức tự nhiên là trên hành trình phơi mở nội tâm, trước thế giới quanh mình, ta sẽ phải vượt qua rất nhiều rào chắn chướng ngại. Chúng có thể là những hoài nghi, ác cảm, ham muốn, lười biếng, hướng ngoại, phóng tán... hay nói gọn hơn thì chính là những khát vọng và âu lo, toan tính luôn là những ma chướng nguy hiểm cho ý hướng phơi trải trí tuệ nhưng ta cũng nên nhớ rằng chính các chướng ngại đó lại đồng thời là phương tiện tối ưu để ta tìm thấy sự tự do.

Ở đây chúng ta có thể lấy tâm trạng sợ hãi làm hình ảnh ví dụ. Thoạt đầu mới xuất hiện, nó lập tức ngăn trở khả năng lý trí của ta. Ta bị đồng hóa với đối tượng bằng một sự quên mình không cưỡng nổi. Mà trong đời sống, chúng ta thường có lắm cái để sợ: cái ám ảnh đến từ ngay bên trong nội tâm hay đến từ ngoài cảnh, một tình huống bất trắc nào đó chẳng hạn. Và chúng ta có một thói quen là cố gắng làm ngơ để lãng quên nó đi. 

Nhưng càng cố quên thì cũng có nghĩa là ta vẫn cứ nhớ tới nó và cảm nghiệm của chúng ta đối với thực tại lúc này càng tệ hại thêm, thiển cận và nông nổi, bối rối. Nhưng bên cạnh đó, chính lòng sợ hãi lại là dấu hiệu của một tâm thái trưởng thành. Nó đưa ta tới một không gian khác mới mẻ hơn, bằng cách nằm giữa để làm cái trạm trung chuyển cho những gì ta đã biết với cái chưa được biết. Nó vén cho ta thấy được những thứ quan trọng hơn so với những gì mà ta vẫn thường cảm nghiệm. Trong cuộc sống này, lẽ tương đối luôn là một quy luật lạ lùng như vậy đấy: cái khó và cái thiêng không thể tách rời nhau.

Ðể khám phá được chân lý thì vấn đề là luôn đòi hỏi ở chúng ta cái can đảm lột trần, phơi mở tất cả khía cạnh sai biệt của đời sống. Lòng sợ hãi chính là một cơ hội để ta thực hiện điều đó. Khi bắt đầu một công phu nào đó, ta cứ thường e sợ mắc phải lỗi lầm nhưng rồi thì sau cùng thì ta sẽ hiểu được rằng tất cả những gì là vĩ đại, là thành công đều bắt đầu từ lầm lỗi. Ðây là vấn đề tối trọng mà ta phải ghi nhớ như một bài học xương máu. Chính một thiền sư lừng danh cũng đã từng tuyên bố: "Ðời sống là những chuỗi dài của những lỗi lầm".


Chẳng thua gì lòng sợ hãi, những cố chấp và thành kiến cũng là chướng ngại cho công phu phơi mở nội tâm. Một chi phái Thiền tông khác đã đặc biệt đề nghị người tu thiền phải biết thơ ngây, một tâm trạng tâm lý thật hồn nhiên như tinh thần anh nhi trong Ðạo Ðức Kinh của Lão tử. Chính thái độ vô tư này mới là một liệu pháp hiệu quả và cần thiết để ta vượt thoát được ngục tù sở tri chướng, một căn bệnh trầm kha nguy hiểm.