CHÙA TAM BẢO
323 Phan Chu Trinh
Mùa An cư - Phật Lịch 2553 (Dương Lịch
2009)
HƯỚNG DẪN THIỀN NIỆM HƠI THỞ (Buổi thứ 22
– Thứ Ba 29/7/2009)
Do Ngài Hoà Thượng Pháp Sư - Đại Thiền Sư
ASHIN KOVIDA
Thiền Lâm Viện Pa-Auk - Tiểu Bang Mon –
Mawlamyine – Myanmar.
Namo Tassa Bhagavato Arahato
Sammāsambuddhassa
ÂN ĐỨC PHẬT BẢO (HỒNG ÂN PHẬT BẢO (tiếp
theo)
Trong 9 Hồng Ân của Đức
Phật:
Arahaṃ (1), Sammāsambuddho (2),
Vijjācaranasampanno (3), Sugato (4), Lokavidū (5), Anuttaro purisadammasārathi
(6), Satthādevamanussānaṃ(7), Buddho (8), Bhagavā (9).
+ (08) Ân Đức BUDDHO:
ÂN ĐỨC PHẬT là
Ân Đức Thứ Tám:
“Sabbadhamme buddhaheti buddho”
- Sabbadhamme: Tất cả các Pháp
- Buddhati: biết được
- Iti tasma: vì thế
- Buddho: gọi là Phật
Nghĩa là: Người biết được tất cả các
Pháp nên gọi là Phật:
“Cuddassahi ñāṇehi buddhassa Buddho.” Câu
này có nghĩa là: “Bậc biết được bằng 14 loại trí, nên gọi là Phật:
+
+ + Mười Bốn trí ấy gồm có:
I>.
Trí biết được về Bốn sự Thật (TỨ DIỆU ĐẾ)
1. Trí biết rõ ràng về Khổ: Dukkhasaccā: (Khổ đế),
2. Trí biết rõ ràng Pháp sẽ phải được
loại trừ: Samudayasaccā (Tập đế),
3. Trí biết rõ ràng Pháp liễu ngộ tức
thì: Nirodhasaccā (Diệt đế),
4. Trí biết rõ ràng Pháp phải được phát triển: (Maggasaccā) (Đạo đế).
Và vì liễu tri được Bốn Sự Thật ấy bằng trí, nên Ngài có được 4
loại trí ấy.
II>. Bốn Tuệ Phân
Tích (Paṭisambhidāñāṇa): Tuệ Phân Tích (Paṭisambhidā)
được gọi là vì Biết được nhân; biết được quả; biết thông suốt rõ ràng cả ý
nghĩa, cú pháp ngữ pháp; phân tích được bằng nhiều ví dụ từ nông đến sâu.
1. Attha Paṭisambhidāñāṇa:
Tuệ Phân tích nhân (hetu)
2 .Dhamma Paṭisambhidāñāṇa:
Tuệ Phân tích quả (vipāka)
3. Nirutti Paṭisambhidāñāṇa:
Tuệ Phân Tích ngữ pháp (sadda)
4. Paṭibhāna Paṭisambhidāñāṇa:
Tuệ Phân Tích 1 vấn đề bằng đủ các ví dụ (upamā, upmeyya)
III>. Sáu Tuệ đặc
biệt (Asādhāraṇañāṇa): Chỉ có Đức Phật mới có được 6 Tuệ đặc biệt này mà thôi, các vị
Thánh Tăng Đại Đệ Tử, các hạng Thanh Văn, không một chúng sanh nào có ngoài trừ
Đức Phật.
1. Indriyaparopariyattiñāṇa: Tuệ biết được căn cơ, Pāramī (Balamật) của chúng sanh đã đến hồi chín mùi.
2. Āsayānusayañāṇa: Tuệ biết được nếu thuyết bài pháp này như thế nào đến chúng
sanh này sẽ khiến cho họ lập tức liễu tri các Pháp theo tuần tự và chứng đắc
được Đạo-Quả. Đức Phật Ngài biết được khuynh hướng mong mõi trong tâm của chúng
sanh đó.
3. Yamakapāṭihāriya: Thần thông song hành là Oai lực có thể thị hiện cùng một lúc
nước và lửa thoát ra từ châu thân ngài. Nước từ bên mắt phải phun ra, lửa từ
bên mắt trái phun ra, nước từ bên tai trái phun ra, lửa ở bên tai phải phun ra,
những lỗ chân lông lỗ này phun nước, lỗ khác phun lửa. Toàn bộ khắp châu thân
của Ngài có thể phun lửa và nước cùng một lúc. (Một lúc Tâm của Đức Phật có thể
bắt được nhiều đối tượng – Đây là điều đặc biệt mà không một ai trong thế gian
có thể có được. Chỉ có Đức Phật mới thị hiện được Thần Thông này).
4. Mahākaruṇāsamāpatti: Buổi sáng sớm, Ngài Nhập Đại Bi Định và quan sát thế gian. Số
lần Ngài nhập rồi xã Đại Bi Định lên đến 2.400.000 lần trong một thời Thiền
Định. (Một thời ngồi: Ngài Nhập rồi Xã Đại Bi Định hai triệu bốn trăm ngàn lần
để quan sát thế gian để tìm kiếm người tế độ.)
5. Anāvaraṇañāṇa: Tuệ biết được thông suốt, xuyên thấu mà không có bất kì một điều
gì có thể ngăn che, cản trở. Khi cần khởi tâm muốn biết là biết ngay lập tức.
6. Sabbaññutañāṇa: Tuệ toàn giác, Tuệ thông suốt tất cả các Pháp trong thế gian.
Sáu loại Tuệ trên chỉ
có nơi một Vị Phật Toàn Giác mà thôi, các chúng sanh còn lại không thể nào có
được.
Trên đây là 14 loại trí
của một Vị Phật Toàn Giác nên Ngài có hồng danh là PHẬT.
Câu hỏi 60: Xin
Ngài cho con Biết về Māna (mạn), và đến lúc nào thì mới có thể tận diệt được
Mạn? (Anh Trực)
Trả lời:
- Mạn
(māna) có đặc tướng là tính kiêu
căng, tính ngạo mạn,
- Có
nhiệm
vụ và sự đối xử, so sánh,
- Có
biểu
hiện là sự dương dương tự đắc, “dương nhiễu phất cờ”, (ví dụ nơi một vị
hành giả tưởng mình đã thông đạt các loại Trí).
- Nguyên
nhân gần khiến mạn sanh khởi là Tâm Tham không hợp tà kiến (diṭṭhivippayutta).
Trên đây là định nghĩa về mạn (māna) qua tướng trạng (lakkhaṇa),
nhiệm vụ (rasakicca), biểu hiện (paccupaṭṭhāna) và nhân gần (padaṭṭhāna) trích từ Dhammasaṅganī-Atthakathā (Chú giải bộ Pháp
Tụ - trang 297 (pāḷi))
+ Trong thế gian có 3
loại người:
1. Seyyapuggala: Hạng thánh thiện, cao thượng,
2. Sadisapuggala: Hạng người bình thường,
3. Hīnapuggala: Hạng người thấp kém.
+ Trong mỗi hạng có các
loại mạn sau:
1. Seyyamāna: (thượng mạn, cao mạn) nghĩ rằng ta hơn
người khác về 1 trong các vấn đề về: đức hạnh, về danh vọng, học vấn, hình thức
(sắc tướng, dung mạo)…
2. Sadisamāna:
(đồng mạn) nghĩ rằng ta bằng người về
các phương diện đức hạnh, về danh vọng, học vấn…
3. Hīnamāna:
(ti mạn, liệt mạn) nghĩ rằng ta
thua kém người, cần gì ta phải quan tâm đến họ…
+ Hạng người thánh thiện, cao thượng thường có loại thượng mạn,
cao mạn,
+ Hạng người bình thường, thường có loại đồng mạn,
+ Và hạng người thấp kém thường có ti mạn, liệt mạn.
Mạn khởi lên tương ứng như vậy gọi là như thật mạn, chân mạn (yathāvamāna). Các loại mạn tương ứng này
là thường thấy đối với ba hạng người nói trên. Mạn thường thấy ở các vị thánh
hữu học (sekhiya) là thượng mạn (seyyamāna) (Ví dụ: khi một vị đắc được đạo quả nào, vị ấy biết mình hơn những vị có
đạo quả thấp hơn). Chỉ đến Thánh Đạo Alahán mới có thể loại trừ được loại
mạn này (thượng mạn).
Có một loại mạn khác xuất hiện ở người
khi không đắc được đạo quả, nhưng lại suy tưởng sai lầm rằng mình đã đắc được
Đạo Quả, và khi ấy ngã mạn xuất hiện nơi vị ấy (mạn này không tương ứng, không đúng
– phi chân mạn - Ayathāvamāna).
+
Vấn đề về Tà Kiến và Ngã Mạn (Diṭṭhi
và Māna ):
Tà kiến (diṭṭhi) là sự suy tưởng sai lầm cho rằng Thân-Năm-Uẩn này Tự Ngã.
Còn Ngã mạn, nghĩ rằng Thân-Năm-Uẩn
này là của Ta.
Mặc dù khác biệt về hình thức suy
tưởng, về bản chất, chúng đều có đối tượng là Thân-Năm-Uẩn.
Khi có cùng chung một đối tượng là Thân-Năm-Uẩn, Tà kiến và Ngã mạn
có chung đối tượng chúng sẽ cạnh tranh nhau.
Theo
Vi Diệu Pháp (Abhidhamma):
Thì khi tà kiến (diṭṭhi)
có mặt thì ngã mạn (māna) không có
mặt, và ngược lại,
Khi Ngã mạn (māna) có
mặt thì tà kiến (diṭṭhi) không có
mặt.
Một ví dụ cho dễ hiểu
là:
<Hai sư tử không thể ở chung một động,
Hai vua không thể cùng chung quốc độ,
Hai hùm không thể ở cùng nhau>.
Vào lúc Đức Thế Tôn còn tại tiền, Đại Đức Anuruddha chưa chứng đắc quả vị Thánh Nhập Lưu (Sotapanna) nhưng lại có Thiên Nhãn Thông
(dibbacakkhu), có khả năng nhìn thấy
được 10.000 thế giới. Ngài thấy được Thiên Giới, Địa Ngục giới,… 10.000 thế.
Bất cứ khi nào Ngài muốn nhìn Ngài đều biết rõ, không có một vật cản nào phía
trước có thể ngăn che được. Và chúng ta biết là Ngài Anuruddha rất là tinh tấn
trong việc thực hành Pháp. Dù có nỗ lực, tinh tấn mấy nhưng Ngài vẫn chỉ là một
vị Phàm, chưa chứng đắc được Đạo Quả nào cả. Ngài đã rất nỗ lực mà vẫn không đạt
kết quả gì nên có những lúc mệt mỏi chán nản. Rồi vào lúc ấy Ngài Sariputta đi đến thăm ông và đã giáo
huấn cho ông. Vì Đại Đức Anuruddha đã
thuật lại với Ngài Sariputta rằng: “Bạch
Hiền huynh, con có thể thấy được 10.000 thế giới, có thể biết được 10.000 thế
giới, Trí của con bén nhạy là vậy, nhưng tại sao con chưa đạt được một Đạo Quả
nào cả?” Ngài Sariputta biết bèn nói: “Này Anuruddha,
Hiền đệ hãy bỏ ngã mạn (māna) đi mà
hành thiền, khi Hiền đệ nói rằng chính Hiền đệ có thể nhìn thấy được 10.000 thế
giới, trí tuệ của Hiền đệ bén nhạy: ấy là Hiền đệ đang ngã mạn. Còn khi Hiền đệ
nói: “Ta đã nổ lực, tinh tấn không ngừng nghỉ, không thối giảm như vậy, nhưng tại
sao lại chưa đạt được Đạo Quả: ấy là Hiền đệ đang trạo cử, vọng động (Uddhacca-kukkucca). Hiền đệ hãy dẹp bỏ
vọng động, trạo cử ấy đi.” Ngài Sariputta
đã hướng dẫn như vậy. Được sự hướng dẫn như vậy, Đại Đức Anuruddha nhiệt tâm
trừ ngã mạn, trạo hối - vọng động và hoài nghi. Chẳng bao lâu Đại Đức ấy đã
đoạn trừ hết thảy mọi lậu hoặc và đắc được quả vị Alahán.
Đại Đức Anuruddha dù
có thiên nhãn thông cũng vẫn có những pháp chướng ngại như vậy đấy. Còn hạng
phàm nhân chúng ta thì đừng nói là không có gì? Phóng tâm - vọng động – ngã mạn
tất nhiên là có khởi rồi. Tuy nhiên đừng để ý đến, đừng có nghĩ đến chuyện dẹp bỏ
ngã mạn này. (Vì không phải nghĩ đến chuyện dẹp bỏ ngã mạn mà ngã mạn dẹp bỏ
được theo ý muốn chúng ta – chú thích người dịch). Phóng tâm vọng động đừng có
để ý đến, (để ý đến càng khiến cho phóng tâm nhiều hơn (vì đó là không như lí
tác ý, không khéo tác ý, vụng tác ý (ayonisomanasikāra)
– ghi chú người dịch)). Và như vậy mình càng đang để bụng không muốn nhìn,
không muốn gặp những người mà mình không muốn nhìn, không ưa gặp. Đừng để ý như
vậy. (Càng ghét thì càng để ý, mà càng để ý thì càng ghét.) Thường thì trong
thế gian này càng để bụng bao nhiêu những ý nghĩ là Ta không muốn nhìn, không
ưa gặp, không muốn biết những người mà ta không ưa nhìn bao nhiêu thì thì ngã
mạn càng không thể tránh được chừng ấy. Kể cả để ý đến ngã mạn đã khởi lên cũng
đừng chú ý đến nó. Cái gì đã qua rồi là xong, chỉ để ý đến đề mục chính được
phát triển tăng dần theo từng giai đoạn. Phóng tâm vọng động đã khởi (uddhacca, kukkucca) đừng để ý đến làm
gì. Đây là phương pháp mà Ngài Sariputta
đã hướng dẫn Đại Đức Anuruddha và
cuối cùng nhờ phương pháp này mà Ngài Anuruddha
đã tận trừ được các lậu hoặc.
Lúc chưa nỗ lực hành theo phương pháp này, Đại Đức Anuruddha vẫn chưa đắc Đạo Quả Sotapanna (Dự Lưu Đạo Quả - Quả vị Nhập
Dòng Thánh đầu tiên (diệt trừ được Thân Kiến (sakkāyadiṭṭhi) -Hoài nghi (Vicikicchā)
và Giới cấm thủ (sīlabbataṃ).
Sādhu!Sādhu!Lành thay.
(Dứt buổi thứ 22)
PHÁP TRÍCH
II. Phẩm Ðoạn Triền Cái
1.- Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, dẫn đến dục tham (Kāmacchandā) chưa sanh được sanh khởi, hay dục tham đã sanh được
tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tịnh tướng (subhanimitta).
Tịnh tướng, này các Tỷ-kheo, nếu không
như lý tác ý (ayonisomanasikāra), đưa
đến dục tham chưa sanh được sanh khởi, hay dục tham đã sanh được tăng trưởng
quảng đại.
2. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến sân (byāpāda) chưa sanh được sanh khởi, hay sân đã sanh được tăng trưởng
quảng đại, này các Tỷ-kheo, như đối ngại
tướng (paṭighanimitta). Ðối ngại
tướng, này các Tỷ-kheo, nếu không như lý tác ý (ayonisomanasikāra), đưa
đến sân, chưa sanh được sanh khởi, hay sân đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
3. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến hôn trầm thụy miên (thīnamiddha) chưa sanh đưọc sanh khởi,
hay hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như
không hân hoan (arati), biếng nhác (tandī), chán nản (vijambhitā) ,
ăn quá no (bhattasammado ), tâm thụ động (līnattaṃ). Với người có tâm thụ động, này các Tỷ-kheo, hôn trầm
thụy miên chưa sanh được sanh khởi, hay hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng
trưởng quảng đại.
4. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến trạo hối (uddhaccakukkucca) chưa sanh được sanh khởi, hay trạo hối đã sanh
được tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như tâm không được chỉ tịnh (cetaso
avūpasamo). Với người tâm không chỉ tịnh, này các Tỷ-kheo, trạo hối chưa
sanh được sanh khởi, hay trạo hối đã sanh được tăng trưởng quảng đại.
5. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến nghi hoặc (vicikicchā) chưa sanh được sanh khởi, hay nghi hoặc đã sanh được
tăng trưởng quảng đại, này các Tỷ-kheo, như không như lý tác ý (ayonisomanasikāra). Do không như lý tác
ý, này các Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi, hay nghi hoặc đã sanh
được tăng trưởng quảng đại.
------------------------ (Dứt
nguyên nhân sinh khởi, tiếp theo là nguyên nhân đoạn diệt)
6. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến dục tham chưa sanh không sanh khởi, hay
dục tham đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như tướng bất tịnh (asubhā) .
Tướng bất tịnh, này các Tỷ-kheo, nếu như
lý tác ý (yonisomanasikāra), thời
dục tham chưa sanh không sanh khởi, hay dục tham đã sanh được đoạn tận.
7. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến sân chưa sanh không sanh khởi, hay sân
đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như từ tâm giải thoát (mettā cetovimutti). Từ tâm giải thoát, này các
Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý (yonisomanasikāra),
thời sân chưa sanh không sanh khởi, hay sân đã sanh được đoạn tận.
8. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến hôn trầm thụy miên chưa sanh không sanh
khởi, hay hôn trầm thụy miên đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ kheo, như tinh cần giới (ārambhadhātu), tinh tấn giới
(nikkamadhātu), dõng mãnh giới (parakkamadhātu). Người tinh cần tinh tấn, này các Tỷ kheo, hôn trầm
thụy miên chưa sanh không sanh khởi, hay hôn trầm thụy miên đã sanh được đoạn
tận.
9. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến trạo hối chưa sanh không sanh khởi, hay
trạo hối đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như tâm tịnh chỉ (cetaso
vūpasama). Người có tâm tịnh chỉ, này các Tỷ-kheo, trạo hối chưa sanh không
sanh khởi, hay trạo hối đã sanh được đoạn tận.
10. Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, đưa đến nghi hoặc chưa sanh không sanh khởi,
hay nghi hoặc đã sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như lý tác ý (yonisomanasikāra).
Nếu như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sanh không sanh khởi, hay
nghi hoặc đã sanh được đoạn tận.
Tăng Chi Bộ Kinh - Chương Một Pháp - Phẩm
Đoạn Triền Cái (HT Minh Châu - Dịch Việt)
Tóm tắt bằng bảng:
+ NGUYÊN NHÂN SINH KHỞI:
|
|
1. Dục tham (Kāmacchanda)
|
Vì
tác ý đến Tịnh tướng (hảo tướng) (subhanimitta)
(nên dục tham khởi lên)
|
2. Sân (Byāpāda)
|
Tác
ý đến đối ngại tướng (để ý đến tướng sân (paṭighanimitta))
nên sân khởi lên. (Càng ghét thì càng để ý, mà càng để ý thì càng ghét.)
|
3. Hôn trầm thuỵ miên (Thinamiddha)
|
Không
hân hoan (arati), biếng nhác (tandī), chán nản (vijambhitā) , ăn quá no
(bhattasammado), tâm thụ động (līnattaṃ)
|
4. Trạo hối (uddhaccakukkucca)
|
Tâm
không được chỉ tịnh (cetaso avūpasamo)
|
5. Nghi hoặc (vicikicchā)
|
Không
như lý tác ý (ayonisomanasikāra)
|
+ NGUYÊN NHÂN ĐOẠN TẬN:
|
|
1. Dục tham (Kāmacchanda)
|
Tác
ý đến Bất Tịnh tướng (asubhanimitta)
|
2. Sân (Byāpāda)
|
Tác
ý từ tâm giải thoát (mettā cetovimutti)
|
3. Hôn trầm thuỵ miên (Thinamiddha)
|
Tinh
cần giới (ārambhadhātu), tinh tấn
giới (nikkamadhātu), dõng mãnh giới
(parakkamadhātu)
|
4. Trạo hối (uddhaccakukkucca)
|
Tâm
được chỉ tịnh (cetaso vūpasamo)
|
5. Nghi hoặc (vicikicchā)
|
Như
lý tác ý (yonisomanasikāra)
|
Con nên hiểu như thế nào là như lí tác ý (yonisomanasikāra) và không như lí tác ý
(ayonisomanasikāra)?
***
Theo Tăng Chi Bộ Kinh - Chương Một Pháp - Phẩm Tinh Tấn: (Vīriyārambhādivaggo) –
+ Do không như lí tác ý (ayonisomanasikāra):
-
Sanh khởi các bất thiện chưa sanh
-
Đoạn giảm các thiện pháp đã sanh,
>>>
Không như lí tác ý (Tác ý không đúng đắn, để tâm đến đối tượng không thích hợp,
đối tượng không nên để tâm) - Đấy là ayonisomanasikāra
(không như lí tác ý - vụng tác ý).
+Do như lí tác ý (yonisomanasikāra):
- Sanh
khởi các thiện pháp chưa sanh
- đoạn
giảm các bất thiện đã sanh.
>>>
đó là do như lí tác ý (Tác ý đúng đắn, để tâm đến đối tượng thích hợp, đối
tượng nên để tâm) - Đấy là yonisomanasikāra
(như lí tác ý – khéo tác ý)
*** Và
trong Phẩm Làm Bạn Với Thiện (Kalyāṇamittādivaggo):
+ Do không như lí tác ý (ayonisomanasikāra):
- các
giác chi chưa sanh không sanh khởi, và
- các
giác chi đã sanh không đi đến tu tập viên mãn, --- đó là do không như lý tác ý.
+Do như lí tác ý (yonisomanasikāra):
- các
giác chi chưa sanh được sanh khởi và
- các
giác chi đã sanh đi đến tụ tập viên mãn, --- đó là như như lý tác ý.