CHÁNH NIỆM
(MINDFULNESS) LÀ CÔNG CỤ QUAN TRỌNG ĐỂ CHÚNG TA NHẬN THỨC VÀ CANH GÁC TÂM
Khi tâm xuất hiện những
ý nghĩ, cảm xúc, và xu hướng, chúng ta không nên phản ứng quá mạnh hoặc quá chặt
chẽ. Thay vào đó, chúng ta có thể quan sát và nhận thức rõ về những biến đổi của
tâm.
Khi tâm đang đi đến đối
tượng tham muốn (lobha), chúng ta có thể nhận biết rõ và không để tâm bị cuốn
theo. Tương tự, khi tâm đang đi đến đối tượng sân hận (dosa) hoặc đối tượng si
mê (moha), chúng ta cũng cần nhận thức và kiểm soát tâm.
Chánh niệm
(mindfulness) là công cụ quan trọng để chúng ta nhận thức và canh gác tâm. Khi
chúng ta luôn luôn canh gác theo dõi tâm bằng chánh niệm, chúng ta có thể thấy
rõ những biến đổi của tâm và dần dần hiểu rõ hơn về bản chất của nó.
Khi chúng ta thực hành
chánh niệm khắng khít và bám sát, đối tượng của nó chỉ có tâm biết. Chúng ta
không cần phải dựa vào bên ngoài hay những yếu tố khác, mà chỉ cần tập trung
vào tâm và quan sát chính nó.
Satipaṭṭhāna (niệm khắng
khít, bám chặt) là một trong những phương pháp quan trọng để giáo huấn tâm.
Chánh niệm (sati) là yếu tố quan trọng nhất trong việc thực hành. Khi chúng ta
có khả năng duy trì chánh niệm một cách mạnh mẽ, chúng ta có thể quan sát tâm
và nhận thức rõ về những biến đổi của nó.
Tuy nhiên, không chỉ
có chánh niệm, mà còn cần có vīriya (nỗ lực, cố gắng) để duy trì và phát triển.
Vīriya giúp chúng ta duy trì sự quyết tâm và nỗ lực không ngừng nghỉ trong việc
thực hành.
Khi chúng ta có chánh
niệm và vīriya mạnh mẽ, chúng ta có thể đạt được samādhi (định tâm, tập trung).
Samādhi giúp tâm trở nên yên bình và tập trung, từ đó phát triển paññā (trí tuệ).
Paññā giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của tâm và cuộc sống.
Và khi ấy, ‘tâm trước’
của bạn dù chạy đi đến đâu chăng nữa, thì ‘tâm sau’ của bạn sẽ biết rõ được nó
chạy đi đến đó. Đến đây, bạn sẽ biết rõ ‘tâm trước’ đối tượng bị quan sát của bạn
và ‘tâm sau’ chủ thể quan sát, cả hai loại tâm luôn luôn sinh diệt. Chính sự thấy
biết trở nên như vậy gọi là có được trí tuệ biết “yathābhūta, hiện hữu rõ ràng
như vậy” (yathābhūtañāṇa, trí tuệ như thật, có sao biết vậy).
Tâm trước, có thể hiểu
là ý nghĩ, cảm xúc, hay hành động ban đầu, là khởi điểm của một chuỗi sự kiện
tâm lý.
Tâm sau, là sự phản
chiếu, nhận thức về "tâm trước", là kết quả của quá trình quan sát và
phân tích tâm lý của bản thân.
Sinh diệt, là quá
trình không ngừng thay đổi, phát sinh và tiêu diệt của mọi sự vật hiện tượng,
bao gồm cả tâm.
Yathābhūtañāṇa, là trí
tuệ trực nhận, thấy rõ sự vật hiện tượng đúng như bản chất của nó, không bị che
mờ bởi các vọng tưởng, chấp ngã.
Tâm luôn vận động, tâm
không bao giờ đứng yên, nó luôn luôn chuyển động, thay đổi từ trạng thái này
sang trạng thái khác.
Sự quan sát bản thân,
chúng ta có khả năng quan sát và nhận biết những hoạt động của tâm mình, dù là
những suy nghĩ thoáng qua hay những cảm xúc sâu sắc.
Tâm trước và tâm sau
luôn tương quan, tâm trước là nguyên nhân, tâm sau là kết quả. Sự hiểu biết về
mối quan hệ này giúp chúng ta nhận ra bản chất vô thường của tâm.
Trí tuệ yathābhūtañāṇa,
đây là mục tiêu của quá trình quan sát và thiền tập. Khi đạt được trí tuệ này,
chúng ta sẽ thấy rõ mọi sự vật hiện tượng đúng như bản chất của nó, không còn bị
mê lầm bởi các ảo tưởng.
Quan sát cho đến khi
thấy biết rõ sinh-diệt, và một khi có được trí tuệ như thật, thì sẽ nhàm chán
nơi các pháp tạo tác, thôi thúc (saṅkhāra), và đó là khi trí tuệ “nibbidā, nhàm
chán phát sinh lên”. Và khi nào trí tuệ nhàm chán (nibbidāñāṇa) phát sinh lên,
thì đồng thời cũng là lúc tâm sẽ trở nên thuần thục, hiền lành, tử tế.
Sau đó, đến cuối cùng
của sinh-diệt sẽ chứng ngộ trực tiếp Niết-bàn, diệt được nhân sinh khổ của bậc
Thánh đó là tham ái do trí tuệ diệt tham ái (virāgañāṇa) phát sinh lên vậy. Khi
ấy, tâm đã trở nên thuần thục, hiền lành, tử tế hoàn toàn; đã chứng đạt được
Thánh đạo tuệ, Thánh quả tuệ và sự an lạc Niết-bàn rồi vậy.