Saturday, November 17, 2012

Thầy và đệ tử...

Đức Phật có dạy trong thế gian này có hai người khó tìm nhất:
 - Pubbakāri: người thi ân mà không cần báo. 
Đó là Đức Phật, cha mẹ, thầy tổ. 
Kataññūtā
Nết hạnh biết ơn người
Phạn ngữ Kataññū có hai nghĩa:

1. Pubbakārī: nghĩa là biết ơn người khác đã giúp mình. Ý nói ai đã giúp gì cho ta, dù nhiều hay ít, cũng không bao giờ dám quên, cứ hằng ngày niệm tưởng công ơn người đã giúp đở.2. Kataññū: nghĩa là người làm việc lành để dành việc lành ấy sẽ giúp ta. Ý nói phước có đặc ân là giúp đở chúng sanh khỏi nạn tai và đưa chúng sanh đi đến nơi an lạc là thiên đàng hay Niết Bàn, tùy theo sự hành động của người tạo.

Đức Phật có dạy trong thế gian này có hai người khó tìm nhất:
- Pubbakāri: người thi ân mà không cần báo. Đó là Đức Phật, cha mẹ, thầy tổ.
- Kataññū: người biết ơn và cố tìm phương cách để trả ơn. Người hạng này chỉ có trong hành Phật tử, con và đệ tử nhưng rất hiếm.
Tại sao Đức Phật dạy hai hạng này khó hiếm?
Vì con người phiền não dẫy đầy trong tâm, nên khi làm ơn được việc nào; trong thân tâm còn muốn người thọ ơn phải biết ơn, nếu không trả ơn ít nhất cũng phải nhắc nhở và ca tụng, ít người giúp đở kẻ khác bằng tấm lòng từ ái mà không nghĩ gì tới sự nhớ ơn hay đền ơn của kẻ đã thọ lãnh sự giúp đở của mình.
Người làm ơn như thế rất nhiều nhưng người làm ơn vì lòng từ ái thì thật rất là ít. Những người biết ơn cũng ít hơn. Người được sự giúp đở bất cứ bằng tấm lòng vị tha hay trục lợi, cũng chẳng nên quên ơn người, mà nên luôn luôn ghi lấy ơn ấy vào thân tâm để tìm phương thế trả lại.
Đức Phật dạy: Người không biết ơn ấy, ta có cho họ quyền chức, sang giàu hay cứu sanh mạng họ, họ cũng không bao giờ nhớ ơn ta.
Đức Phật còn dạy: Người mà không biết ơn, chúng ta có cho họ một khối vàng to bằng quả địa cầu, xong họ cũng không hề biết ơn ta.
Sự tích sau đây cho thấy trò đời làm ơn trả oán.
Khi xưa Đức Bồ tát sanh làm tượng chúa ở trong rừng Tuyết Lãnh. Ngày nọ có một người thợ săn đi lạc. Tượng Bồ tát trông thấy người ấy lấy làm thương hại, mới để người thợ săn ấy trên lưng đưa ra tới ven rừng. Khi ngồi trên lưng Đức Bồ tát, anh thợ săn để ý tới từng khóm cây đường nhỏ, vì anh định bụng rằng thế nào anh cũng trở lại đây để lấy cặp ngà của tượng chúa, cặp ngà ấy rất đẹp và có chiếu hào quang ngũ sắc.
Quả nhiên không bao lâu, anh thợ săn ấy trở lại tìm tượng Bồ tát và xin cặp ngà. Đã gọi là Bồ tát thì sự bố thí là phạm hạnh của ngài, nên khi anh thợ săn xin, thì ngài vui lòng cho liền, không hề mến tiếc. Tên thợ săn thấy ngà to và dày, không thể lấy liền được, nên y chỉ cưa lấy một đoạn. Tên thợ săn trở lại lần thứ nhì và lần thứ ba nữa lần này ngà còn cụt, nên y phải đẻo tới trong chơ răng để lấy ngà, sau khi khoét chân răng lấy được đoạn ngà chót, tên thợ săn rất lấy làm vui thích, mang về. Tượng Bồ tát thì quằn quại trên vũng máu, nhưng vẫn không buồn than hay phiền hà gì hết, trái lại rất vui lòng, vì đã làm được việc lành, gọi là bố thí đến bờ cao thượng.
Quả địa cầu to lớn và dày có thể chở nổi núi non vạn vật, nhưng chở không nỗi tội lỗi của con người ác ôn như thế, nên đất nứt ra và anh ta bị đất rút chết, sau khi anh ta vừa đi khuất tầm mắt của tượng Bồ tát, và bị sanh vào A tỳ địa ngục.
Tích này cho thấy rằng người không biết ơn, dù chúng ta có thể cho họ làm Vua Chuyển luân vương cũng vẫn không biết ơn.
Trái lại có sự tích của người biết ơn dù cho một muỗng cơm cũng không hề quên:
Ngày kia Đại đức Xá Lợi Phất vào thành khuất thực nhưng không được một hột cơm nào. Ngài trở về lại gặp một thầy Bà la môn tên Rādha dâng cho ngài một muỗng cơm. Về sau ông Rādha già và rất nghèo, lại muốn xuất gia, không có Đại đức nào nhận cho ông xuất gia.
Đức Thế Tôn mới phán hỏi rằng: "Có vị Tỳ khưu nào nhớ ơn vị thầy Bà la môn này không?"
Đức Xá Lợi Phất bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử biết và nhớ ơn thầy Bà la môn này, ông có bố thí cho đệ tử một muỗng cơm".
Đức Thế Tôn mới khen Đức Xá Lợi Phất là người biết ơn, mặc dù một muỗng cơm. Đức Xá Lợi Phất xin làm thầy tế độ cho ông Rādha. Đức Thế Tôn còn dạy người trí thức, khi đục mát dưới cội cây xong, lúc họ ra đi cũng không nỡ bức một lá cây, mặc dù cây là loài vô tri vô giác. Vì các ngài nghĩ đến ơn của bóng cây.
Đây cũng là chuyện của Đức Xá Lợi Phất:
Khi ngài còn tại gia và đang đi tầm đạo giải thoát, ngài gặp Đức Assaji đang đi khất thực trong thành Vương Xá. Đức Xá Lợi Phất trông thấy Đại đức Assaji lục căn thu thúc, dáng người thong dong tự tại, thật là người đã thoát ly trần tục, ngài phát tâm trong sạch và thành kính, muốn đến gần hỏi đạo, nhưng vì lòng kính nể không dám kinh động, nên cứ theo sau Đại đức. Khi đến nơi vắng vẻ, Đại đức Assaji sửa soạn thọ thực, ngài liền lo múc nước, trải chỗ ngồi, dâng vật thực, và hầu bên hầu Đại đức. Đợi sau khi thọ thực xong mới hỏi: "Bạch ngài, ngài là bậc có lục căn thu thúc, tinh thần thoát tục, ngài xuất gia theo giáo pháp ấy với ai?"
Đại đức Assaji đáp: "Này thầy, Ngài đại Sa môn dòng Thích Ca là tôn sư bần đạo, bần đạo xuất gia với Ngài, và hành theo giáo pháp của Ngài."
Đức Xá Lợi Phất hỏi: "Đức Tôn Sư của ngài dạy ngài những pháp gì:"
Đại đức Assaji nghĩ: "Các người ngoại đạo thường hay chỉ trích và phản đối Phật giáo, vậy ta nên thuyết pháp mầu nhiệm cho ông ta." Rồi ngài mới nói rằng: "Này thầy, bần đạo mới xuất gia theo giáo pháp cao thượng của đức Toàn giác, nên không thể thuyết pháp của ngài cho thầy hiểu được."
Ngài Xá Lợi Phất mới nói: "Bạch ngài Sa môn, tôi tên là Upatisa (tên khi chưa xuất gia) Xin ngài từ bi thuyết pháp dù nhiều hay ít tùy theo ngài đã thông hiểu. Tôi sẽ hiểu theo lời ngài dạy bằng trí của tôi".
Đại đức Assaji mới thuyết câu kệ:
Ye dhammāhetupadhavā
Tesanca yo nirodho ca
Tesam hetum tathāto
Evam vādīmahāsamano
Nghĩa là: Các pháp nào sanh lên cũng do nơi nguyên nhân, khi nguyên nhân ấy bị dụi tắt, thì các pháp ấy đều bị tiêu diệt.
Thật ra, với câu kệ rất vần ấy, Đại đức dạy pháp Tứ Diệu Đế. Đức Xá Lợi Phất đắc quả Tu đà Hườn khi vừa nghe xong câu thứ nhì.
Sau lại Đại đức Xá Lợi Phất xuất gia với Đức Thế Tôn và đắc quả A La Hán, và ngài là đệ tử tay mặt của Đức Thế Tôn. Không bao giờ ngài quên vị thầy chỉ câu kệ đầu tiên cho ngài. Hằng ngày, nếu ngài biết Đại đức Assaji ở hướng nào, ngài day mặt qua hướng ấy làm lễ tỏ lòng kính trọng.
Các Thầy Tỳ khưu thấy vậy mới vào hỏi Đức Thế Tôn và nói rằng: "Đức Xá Lợi Phất hằng ngày lễ bái hướng này hướng nọ như kẻ ngoại đạo".
Đức Phật đã hiểu rõ vì sao, nhưng Ngài vẫn hỏi lại Đại đức Xá Lợi Phất. Đại đức đáp rằng ngài hằng lễ bái như thế và ngài biết rằng Đại đức Assaji ở về hướng ấy.
Đức Thế Tôn khen ngài Xá Lợi Phất là kẻ biết ơn người.
Tôi viết đoạn này thấy rất khó giải, vì trong bộ Chú giải của Hạnh phúc XI dạy nết hạnh phụng sự mẹ cha, và Hạnh phúc thứ XIII dạy cúng dường đến bậc đáng cúng dường. Cả hai hạnh phúc này thuộc về biết ơn người. Rồi tại sao Hạnh phúc XXV lại dạy nết hạnh biết ơn người? Tôi cố tìm hiểu, mới thấy câu Phạn ngữ dạy Katannutāya sappurisabnūmiyam thatvā, nghĩa là nết hạnh biết ơn người là người ở trong thành phần của bậc trí thức.
Vậy thì sự biết ơn người trong Hạnh phúc XXV này, thuộc về sự biết ơn cao thượng hơn những pháp trước, nghĩa là sự biết ơn hạng trí thức. Nhưng tại sao lại còn có sự biết ơn của hạng trí thức?
Sự biết ơn của người thường là khi nào ta thọ ơn từ người nào thì ta chỉ nghĩ cách trả ơn cho người ấy. Các bậc trí thức lại khác hơn ta, là mặc dù không trực tiếp được người làm ơn giúp đỡ cho gì, nhưng khi thấy người kia làm ơn hay giúp đỡ kẻ khác bằng cách nào, khi có thể giúp được, mà không bao giờ trục lợi, thì các bậc trí thức cũng cảm phục lòng tốt ấy và vẫn biết ơn người ấy; đồng thời cũng nghĩ đến sự đền đáp công ơn, nếu có dịp có thể giúp được, vì các bậc trí thức nghĩ cũng như đã thọ ơn của người ấy. Đây là sự biết ơn rất cao thượng, mà ít có ai nghĩ và hành động vậy. Nên Hạnh phúc XXV dạy biết ơn là như thế.
Sự biết ơn người có hạnh phúc là:
1. Là bậc trí thức
2. Ai ai cụng ca tụng công đức.
3. Là nguyên nhân làm cho người đắc được pháp cao thượng đạo quả và Niết Bàn.
4. Là nguồn của phước.
5. Là người không dễ duôi.
6. Là người có pháp cao quí trong tâm.
7. Là người làm lợi ích cho đời mình.
8. Là người hộ trì Phật pháp.
9. Là người đi theo con đường của bậc trí thức.
10. Là người có nhiều bạn lành.

11. Là người có đặc ân cao thượng trong đời.