Ngày
nay thiền đã trở thành phổ biến, ai cũng nói về thiền,
sách báo nào cũng đề cập đến thiền, gần đây lại
có chuyện du lịch thiền. Nhiều nhận định về thiền,
nào là thiền là sự rỗng lặng, sự đào luyện tâm tỉnh
thức, tâm từ bi, sự nhận chân về giả hợp và chân
ngã...
Thật vậy, trong cuộc sống mà con người luôn phải
đối mặt với bao nỗi lo âu sợ hãi và bế tắc thì
giáo lý đạo Phật được xem như một giải pháp khả dĩ
đáp ứng những yêu cầu bức xúc của thời đại, nhằm
tháo gỡ vướng mắc, khổ đau… đã được các triết
gia, các nhà tư tưởng, nhà khoa học Đông Tây quan tâm.
Thiền đã trở thành một phong cách sống tỉnh thức có
thể áp dụng cho nhiều đối tượng, căn cơ khác nhau,
không phân biệt truyền thống văn hóa tôn giáo, được
phổ biến trên các phương tiện truyền thông và có phạm
vi ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như thư pháp,
thi ca, hội họa, âm nhạc, uống trà, cắm hoa... và cả
kỹ thuật làm đẹp.
Ở ta, sau
một khoảng lặng, thiền cũng đã rộ lên với sách, báo
và các bài viết của các thiền sư Việt Nam, Trung Quốc,
Tây Tạng... đã giúp nhiều người hiểu biết thêm về
thiền, nhưng tiếc thay một số người cũng chỉ dừng
lại ở “biết để mà biết”. Họ vẫn nghĩ thiền là
lĩnh vực cao siêu thuộc thẩm quyền của các bậc thiền
sư, các bậc thức giả có thiện căn hay ít ra cũng là
các thiền sinh trong thiền viện, chứ không phải là thứ
dành cho bất cứ ai, vội vã nhảy vào không khéo thì…
tẩu hỏa nhập ma! Vả lại, khi nói đến thiền người
ta cũng chỉ nghĩ đến ngồi thiền. Thật ra, thiền là
một phong cách sống tỉnh thức trước thực tại và biểu
hiện chánh niệm thường trực trong mọi uy nghi như đi
đứng nằm ngồi ngủ nghỉ... mà truyền thống Thiền
tông đã nói đến như thiền nhặt rau, bửa củi, giã
gạo, lau nhà, múc nước...
Chính vì
vậy, hơn lúc nào hết trong cuộc sống hối hả như ngày
nay, con người phải chịu nhiều áp lực, thiền không hẳn
là việc ngồi tĩnh tọa trong am cốc, trong thiền viện,
chùa chiền theo một thời khóa nhất định. Tất nhiên
ngồi thiền có lợi thế để đạt trạng thái định
cao. Ngày nay thiền đã đi vào cuộc sống, chẳng hạn khi
đi xe máy, chỉ đơn giản là biết nương theo hơi thở để
trở về với mình, cũng có thể niệm Nam mô Quán Thế Âm
Bồ tát… thì đầu óc sẽ tỉnh táo, mắt tinh tường
quan sát trước sau (không để tâm lang thang) tất sẽ hạn
chế bất cẩn, tai nạn. Khi mới ngủ dậy, thay vì vội
bước xuống đất ra ngoài, ta để năm mười phút hít
thở, xoa đầu mặt, tay chân... hẳn sẽ tránh được
trúng gió do sự thay đổi môi trường đột ngột hay trợt
té dập đầu, gãy xương. Trước khi ngủ, nằm buông thư
hít vào thở ra sâu chậm năm bảy lần, đưa tâm trở về
tiếp xúc với mọi bộ phận cơ thể, ta sẽ ý thức được
hoạt động không ngừng nghỉ suốt ngày đêm của lục
phủ ngũ tạng, ta sẽ biết cách tránh tác hại do hít thở
khói thuốc lá, bụi bặm ô nhiễm, thức ăn thức uống
độc hại, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Nhấc máy
điện thoại, trước khi nói hít thở sâu ba bốn lần,
kéo tâm đang rong ruổi trở về giây phút hiện tại và
nở nụ cười, người nghe bên kia ắt hẳn sẽ cảm nhận
được niềm vui. Sau hai ba giờ làm việc mệt nhọc, căng
thẳng ta đứng lên, cũng có thể ngồi tại chỗ vươn
vai thở sâu năm bảy bận, đưa tâm trở về với thân,
sự hưng phấn sẽ trở lại để tiếp tục công việc.
Khi gặp chuyện tức tối hay bực bội, trở về với hơi
thở ta sẽ nhận diện được cơn giận, cơn giận sẽ từ
từ tan biến. Cũng thế, khi gặp chuyện bất trắc, thay
vì vội vã đối phó bằng một thái độ giận dữ, ta
thở sâu năm bảy lần, lấy lại bình tĩnh và tìm ra cách
xử sự phù hợp.
Đó là
những gì tôi đã làm và chia sẻ với người thân, bạn
bè và đã đạt được kết quả tốt đẹp, đến độ
khi gặp ai đó có vấn đề bức xúc về gia đình con cháu
hay đến thăm người bị bệnh, tôi cứ lấy làm tiếc
rằng họ không biết sử dụng thiền và nôn nóng muốn
vực họ dậy, bày họ thở! Như thế thiền, đúng với
mọi nhận định trên, vì hơi thở không phải cố gắng
nỗ lực mà kết quả tự nhiên đến! Cũng chính vì thế
thiền, ngày càng được vận dụng trong mọi lãnh vực
đời sống. Trong trường học, thiền giúp học sinh tăng
khả năng chú ý, phát huy trí nhớ, óc sáng tạo. Trong
bệnh viện, thiền giúp bệnh nhân làm chủ hơi thở, điều
hòa nhịp tim và khí huyết, nhờ thế máu huyết tươi
nhuận, tăng cường sức đề kháng. Trong trại cải huấn,
thiền giúp trại sinh nương theo hơi thở để soi rọi lại
mình, nhờ đó giảm căng thẳng, bớt bạo động, biết
thông cảm và thương yêu. Trong trại cai nghiện, thiền
giúp phát triển thái độ lạc quan, ổn định tinh thần,
thấy được ý nghĩa cuộc sống. Nhờ đó cơ thể kích
thích hóc-môn tăng cường hoạt động, chế ngự tác động
của chất gây nghiện.
Đối với
tôi thiền còn có một ý nghĩa đặc biệt, giúp cơ thể
chuyển hóa được cơn bệnh “bất trị”. Hơn 10 năm
trước, cơ thể gầy còm của tôi là nơi hội tụ nhiều
chứng bệnh như rối loạn tiêu hóa, táo bón, lâu lâu lại
cảm cúm, mụt nhọt nổi khắp mình mẩy, tay chân nhức
mỏi... (có thể những triệu chứng này có quan hệ với
nhau). Nhiều bác sĩ, qua xét nghiệm chẩn đoán đã kết
luận “viêm đại tràng mãn” với lời giải thích do
lao lực, lao tâm và khuyên tốt nhất nên an dưỡng tinh
thần, bồi dưỡng thể chất vì bệnh này chưa có thuốc
đặc trị. Trong suốt ba bốn năm tôi đã gõ cửa nhiều
thầy thuốc, nhiều bệnh viện, sử dụng nhiều thuốc
Đông Tây y nhưng rốt cục đành chịu bó tay, chỉ nước
chờ... chết (cũng có khi bớt nhưng chỉ thời gian ngắn
hoặc giảm chứng này lại bày chứng khác). Nghe nói thiền
có khả năng chữa được bệnh nan y. Tôi nghi ngờ, y học
hiện đại còn bó tay thì liệu thiền có phép mầu nào!
Nhưng “hữu sự vái tứ phương”, tôi nghĩ nếu không
lành bệnh, ít ra cũng có hiệu quả nào đó, tỉ như
cái chết an ổn! Tôi đọc sách, nghe băng đĩa hướng dẫn
tập thiền của quý thầy... nhưng do khả năng hạn chế
tôi chỉ vận dụng theo cách phù hợp, ngờ đâu kết quả
bất ngờ thật đáng ngạc nhiên. Đơn giản chỉ là ngồi
yên, theo dõi hơi thở ra vào, vào sâu biết vào sâu, ra
chậm biết ra chậm, thế nhưng không giản đơn tí nào.
Lúc đầu, đếm lộn lui lộn tới rồi bao nhiêu ý nghĩ
khởi lên chẳng đầu đuôi thứ lớp gì. Ngồi chưa được
bao lâu thì mắt ríu xuống, rồi ngứa ngáy rần rần như
kiến bò trên mặt trên cổ... chân đau, thân mỏi như lúc
nào cũng muốn kéo mình xuống! Nhưng kiên trì dần dần
rồi cũng thuần thục và chừng năm sáu tháng sau, mọi
thao tác trở nên nhuần nhuyễn và thành thói quen mỗi
ngày hai thời. Mỗi thời 45-50 phút sáng tối đều đặn,
bữa nào trở ngại gì đó không ngồi được cảm thấy
như thiếu cái gì! Sau ba bốn tháng, mầu nhiệm thay bệnh
viêm đại tràng (chứng bệnh chủ yếu) thuyên giảm và
chừng một năm, các triệu chứng khác cũng dần biến
mất! Sau gần mười năm kiên trì thực tập, giờ đây
sức khỏe phục hồi mà không phải dùng đến bất cứ
viên thuốc Đông Tây nào. Đó là sự thật, nhưng nếu ai
hỏi tại sao ngồi thiền lại khỏi bệnh hay ngồi thiền
lâu rồi có thấy gì không? Tôi chẳng biết trả lời ra
sao khi thật sự không (hay chưa) thấy gì và cũng chẳng
hiểu vì sao thiền lại chuyển hóa được bệnh tật!
Điều có thể thấy rõ là sự thay đổi từ màu da sắc
mặt trở nên hồng hào, rồi ăn uống biết ngon, ngủ
sâu... trí nhớ phục hồi, đầu óc sáng ra. Và ngạc
nhiên hơn là không dưng mà các mối quan hệ được cải
thiện rõ rệt! Có thể rằng trong khi ngồi yên, thở ra
thở vô, bỗng nhận ra rằng hơi thở là cầu nối giữa
thân và tâm, vì thật ra lắm lúc thân có đó mà tâm rong
ruổi đâu đâu. Trạng huống đánh mất tâm thường xảy
ra đối với tất cả mọi người, mà ông bà xưa thường
bảo nôm na là “ú ớ như ốc lộn hồn”. Và khi đem
tâm trở về với thân, ta sẽ nhận diện được trạng
huống ta đang phải đối mặt thì sự trục trặc, rắc
rối sẽ biến mất. Hơi thở cũng giúp ta nhận diện được
sự mong manh của đời người, còn thở ra, hít vào là
sống, ngược lại là chết. Sống chết chỉ là một quá
trình, không liên quan gì đến cái ta hay cái của ta. Thật
sự không ai sống và cũng chẳng ai chết mà chỉ là vận
hành của nhân và duyên, duyên hết thì kết thúc quá
trình. Từ đó nhận ra sự nhất thể giữa ta và muôn
loài, vô ngã! Nhờ thế ta biết chia sẻ và cảm thông với
mọi người. “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều
ta không muốn thì không nên làm cho người). Nhận thức
đó có vai trò thật hết sức quan trọng, đã làm thái
độ, hành vi, cử chỉ của ta trở nên nhẹ nhàng, cởi
mở. Khi tâm không còn lo lắng, buồn phiền, sợ hãi thì
thân khỏe ra, hết bệnh là hệ quả tất yếu. Và theo
nghiên cứu của khoa học tâm lý trị liệu, bằng hơi thở
sâu và dài, máu sẽ được biến đổi, tế bào não không
ngừng được đổi mới và nếu cứ lặp lại đều đặn
mỗi ngày cơ thể sẽ được làm mới, vô hình trung ta
khai thác được nguồn năng lượng vô biên tiềm ẩn sẵn
trong ta, tất mọi trục trặc sẽ được điều chỉnh,
rối loạn sẽ được điều hòa. Và phải chăng, đó
chính là quá trình chuyển hóa của nghiệp lực.
Như thế
- từ một pháp môn tu học trong thiền môn - thiền bước
vào cuộc đời, phổ biến thành một phong cách sống tỉnh
thức. Đấy cũng chính là quá trình tương tác qua lại
nhân quả, quả nhân giữa thân và tâm, giữa tâm và cảnh,
cảnh và thân do tác động bởi mức độ tinh tấn thực
hành giới, định, tuệ và tự nguyện thực hiện tâm từ,
bi, hỷ, xả theo hạnh nguyện bố thí, trì giới, nhẫn
nhục. Điều này giải thích lý do tại sao pháp Phật được
gọi là lương dược và Đức Phật được gọi là bậc
đại y vương. Và có thể liên hệ một số Tăng Ni, mặc
dù sống đạm bạc nhưng hầu hết có sức khỏe tốt,
đặc biệt các bậc cao tăng, các vị thiền sư có phong
thái nhẹ nhàng, tuổi thọ cao nhưng trí tuệ mẫn tiệp,
bền bỉ thuyết giảng, viết sách, dịch kinh...
Chưa nói
đến mục tiêu đạt giác ngộ, giải thoát sinh tử, luân
hồi là mục đích chính thiền nhắm đến mà lịch sử
Thiền tông đã chứng tỏ. Trong cuộc sống đầy bất
trắc và lo âu như hiện nay, thiền đã trở thành một
phong cách sống tỉnh thức. Bằng hơi thở, thiền đưa ta
trở về thực tại bây giờ và ở đây, ta sẽ nhận diện
được trạng huống của tâm, nỗi khổ niềm đau sẽ
được ôm ấp và hóa giải. Tâm sẽ được giải phóng
khỏi mọi ràng buộc của tham sân si, thân sẽ biết cách
tự đối phó với bệnh! Như thế phải chăng thiền quán
hơi thở tỉnh thức mang lại cho con người hôm nay con
đường giải thoát khổ đau! Và may mắn thay, một người
đã từng bị bệnh, từng khổ sở vì bệnh, tôi mới
nhận ra sự mầu nhiệm của Phật pháp. Và vô cùng biết
ơn khi thiền giúp tôi trở về nhận diện được điều
mầu nhiệm đó, tuy đơn giản nhưng quý giá biết dường
nào!
Võ
Văn Lân