Đôi khi những
người mới học Thiền nghĩ rằng Thiền Phật giáo và đạo Phật là hai thứ khác nhau.
Trong thực tế, thậm chí một vài người còn hỏi rằng: Thiền và Phật giáo khác
nhau như thế nào? Câu trả lời là: Thiền và Phật giáo không hề khác nhau.
Thiền là một
pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo
pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
Tuy nhiên, khi chúng ta dùng từ ‘Phật giáo’ tức là chúng ta muốn nói đến truyền thống tôn giáo bắt nguồn từ những lời dạy của Đức Phật như là một tổng thể; khi chúng ta dùng từ ‘Thiền’ có nghĩa là chúng ta muốn đề cập đến một trường phái hay là một pháp môn tu tập trong truyền thống tôn giáo ấy. Nhưng chúng ta không thể nào tách Phật giáo ra khỏi Thiền mà không làm cho Thiền mất đi tính thiền, cũng như chúng ta không thể nào tách clo ra khỏi muối mà không làm cho muối mất đi vị mặn. Người ta cũng thường nghĩ rằng Thiền của Phật giáo là một hiện tượng tôn giáo đặc trưng ở Nhật Bản. Điều này thường xảy ra đối với những người phương Tây lần đầu tiên tiếp cận với thiền thông qua những tác phẩm của D.T. Suzuki, một học giả vĩ đại của Nhật Bản. Tuy nhiên, dù cho thiền thật sự là hoa trái của văn minh Nhật Bản, trường phái thiền của Phật giáo không bị giới hạn trong đất nước Nhật Bản mà nó còn được phát triển mạnh ở những nước khác nữa. Nguồn gốc của Thiền bắt nguồn từ Ấn Độ, đi theo dòng lịch sử của nó sẽ dẫn chúng ta đến với Trung Hoa, Hàn Quốc, và Việt Nam. Chữ Zen trong tiếng Nhật thật ra là một từ được phát sinh từ chữ Ch’an trong tiếng Hoa, và chữ Ch’an này bắt nguồn từ cách phát âm của chữ Dhyāna trong tiếng Sanskrit, có nghĩa là sự trầm tư hay tham thiền. Ở Việt Nam, chúng ta dùng một chữ tương tự là chữ Thiền. Tuy rằng sự phát âm có khác nhau ở mỗi quốc gia, nhưng phương pháp thực tập thì vẫn giống nhau: phương pháp tham thiền và trầm tư, phương pháp giữ tâm định tĩnh và trầm lắng, phương pháp phát huy những khả năng tiềm tàng của chính mình và sự khám phá ra rằng Phật tính là bản chất đích thực cao quý nhất hiện hữu trong mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, khi chúng ta dùng từ ‘Phật giáo’ tức là chúng ta muốn nói đến truyền thống tôn giáo bắt nguồn từ những lời dạy của Đức Phật như là một tổng thể; khi chúng ta dùng từ ‘Thiền’ có nghĩa là chúng ta muốn đề cập đến một trường phái hay là một pháp môn tu tập trong truyền thống tôn giáo ấy. Nhưng chúng ta không thể nào tách Phật giáo ra khỏi Thiền mà không làm cho Thiền mất đi tính thiền, cũng như chúng ta không thể nào tách clo ra khỏi muối mà không làm cho muối mất đi vị mặn. Người ta cũng thường nghĩ rằng Thiền của Phật giáo là một hiện tượng tôn giáo đặc trưng ở Nhật Bản. Điều này thường xảy ra đối với những người phương Tây lần đầu tiên tiếp cận với thiền thông qua những tác phẩm của D.T. Suzuki, một học giả vĩ đại của Nhật Bản. Tuy nhiên, dù cho thiền thật sự là hoa trái của văn minh Nhật Bản, trường phái thiền của Phật giáo không bị giới hạn trong đất nước Nhật Bản mà nó còn được phát triển mạnh ở những nước khác nữa. Nguồn gốc của Thiền bắt nguồn từ Ấn Độ, đi theo dòng lịch sử của nó sẽ dẫn chúng ta đến với Trung Hoa, Hàn Quốc, và Việt Nam. Chữ Zen trong tiếng Nhật thật ra là một từ được phát sinh từ chữ Ch’an trong tiếng Hoa, và chữ Ch’an này bắt nguồn từ cách phát âm của chữ Dhyāna trong tiếng Sanskrit, có nghĩa là sự trầm tư hay tham thiền. Ở Việt Nam, chúng ta dùng một chữ tương tự là chữ Thiền. Tuy rằng sự phát âm có khác nhau ở mỗi quốc gia, nhưng phương pháp thực tập thì vẫn giống nhau: phương pháp tham thiền và trầm tư, phương pháp giữ tâm định tĩnh và trầm lắng, phương pháp phát huy những khả năng tiềm tàng của chính mình và sự khám phá ra rằng Phật tính là bản chất đích thực cao quý nhất hiện hữu trong mỗi cá nhân.
Một số người
có thể hỏi rằng, ai là người sáng lập ra Thiền của Phật giáo? Khi chúng ta tìm
kiếm vị sáng lập của Thiền, chúng ta phải dò tìm ngược trở lại dòng lịch sử lâu
dài, những bậc thầy của Thiền tông ở Nhật Bản trong quá khứ, những vị thiền sư ở
Trung Hoa và chư vị Tổ sư, cả đến tổ Bồ Đề Đạt Ma, và cho đến chính Đức Phật.
Người sáng lập đạo Phật và vị sáng lập ra Thiền của Phật giáo là một, hoàn toàn
không có ai khác. Khởi nguyên của đạo Phật và Thiền là sự chứng ngộ của Đức Phật.
Vì thế chúng tôi muốn giới thiệu về Thiền của Phật giáo thông qua việc trình
bày khái quát về Đức Phật, về cuộc đời của Ngài, về tính cách và những thành tựu
của Ngài. Đã có nhiều tác phẩm trình bày chi tiết về tiểu sử cuộc đời của Đức
Phật, cho nên chúng ta sẽ không đề cập đến những vấn đề này một cách quá chi tiết
như việc trình bày ý nghĩa cuộc đời của Ngài đối với thế giới hiện tại của
chúng ta.
Chữ Phật
không phải là một tên riêng mà là một danh hiệu, có nghĩa là một đấng Giác ngộ
hay một bậc Tỉnh thức. Người được gọi là Phật không phải bẩm sinh đã là giác ngộ,
mà cũng giống như chúng ta thôi, không giác ngộ, danh hiệu Phật chỉ là sau này,
sau khi Ngài đạt được giác ngộ, và Ngài được gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni, đấng
Giác Ngộ của dòng họ Thích Ca. Ngài được đặt tên là Tất Đạt Đa Cồ Đàm, và vốn
là một hoàng tử, con của một vị vua ở miền Đông bắc Ấn Độ. Mặc dầu chính hoàng
tử là người được chọn để làm người thừa kế vương vị, nhưng lúc trưởng thành vị
thái tử trẻ này đã cảm thấy không hài lòng với cuộc sống vương giả của mình. Bởi
vì thái tử đã thấy được rằng tất cả chúng sanh đều phải bị khổ đau - khổ đau vì
sanh, lão, bệnh và tử - và đã ra đi theo tiếng gọi của tâm từ bi, thái tử mong
muốn có thể cứu khổ cho muôn loài chúng sanh. Trong những lúc suy tư, thái tử
đã nghĩ: “Nếu mình tiếp tục sống trong hoàng cung, làm một vị thái tử và trở
thành một vị vua trong tương lai, mình có thể có được hạnh phúc trong một chừng
mực nào đó cho chính mình và cho những người xung quanh. Nhưng làm sao mình có
thể giúp tất cả chúng sanh tìm được hạnh phúc? Làm sao mình có thể cứu tất cả
chúng sanh ra khỏi khổ đau? Phải có một phương pháp nào đó, và chính mình phải
đi tìm nó”. Vì suy nghĩ như thế nên thái tử đã từ giã hoàng cung, đi lang thang
đến những nơi xa xôi, bên ngoài biên cương của vương quốc mình và rồi đi sâu
vào trong các khu rừng để tìm con đường thoát ra khỏi khổ đau, không chỉ cho
chính thái tử mà còn cho tất cả chúng sanh.
Con đường mà
thái tử đã chọn quả là không dễ đi chút nào. Nó đòi hỏi phải có một sự dũng cảm
phi thường và kiên định để có thể từ bỏ quyền thừa kế ngai vàng, từ bỏ tất cả mọi
thứ để đi lang thang trong rừng, mặc những mảnh vải thô xấu, cũ kỹ, ăn thức ăn
do sự bố thí của tín thí và thường xuyên tu tập thiền định. Có thể là không quá
khó khăn đối với chúng ta để từ bỏ một ít tiện nghi để tu thiền, cho đến cả việc
từ bỏ gia đình để trở thành những một vị Tăng hay Ni. Nhưng đối với những người
có địa vị cao, như là một vị vua, một hoàng tử hay một tổng thống, hoặc là một
thống đốc, để từ bỏ mọi thứ nhằm đi tìm hạnh phúc và an vui cho kẻ khác quả là
một việc làm không dễ dàng chút nào. Có lẽ đấy là một việc làm khó khăn nhất
trong cuộc đời. Nhưng đó là những gì vị hoàng tử trẻ tuổi Tất Đạt Đa đã làm.
Thái tử đã bỏ lại sau lưng người vợ đẹp, đứa con yêu, bỏ lại sự giàu sang trong
cung vàng điện ngọc, từ bỏ tất cả quyền lực đầy hứa hẹn và cả sự vinh quang mà
thái tử sẽ có được để tham thiền ở những nơi thanh vắng xa hẳn sự viếng thăm của
người đời. Ở đây chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao thái tử làm điều đó? Câu
trả lời là tại vì lòng từ bi vô lượng của thái tử. Điều khiến cho thái tử chấp
nhận sự hy sinh ấy hết lần này đến lần khác chính là tâm từ bi vô lượng, sự
thương cảm sâu sắc của thái tử đối với những khổ đau của người khác và sự quyết
tâm của thái tử để tìm cho ra con đường thoát khỏi khổ đau mà tất cả mọi loài đều
phải nếm trải. Điều cao quý hơn hết là chính bởi lòng từ vô biên của Ngài và đằng
sau những sự hy sinh và những thành tựu của thái tử là lòng từ vô lượng ấy cho
nên chúng ta kính mến và cảm phục thái tử.
Sau khi từ
giã hoàng cung, thái tử đã tìm đến những bậc thầy yoga nổi tiếng thời bấy giờ để
thọ giáo và đã thực tập theo những cách thức thiền định dưới sự hướng dẫn của họ
với một sự cố gắng phi thường. Thái tử đã đạt được nhiều trạng thái tâm linh
siêu việt, những trạng thái tâm thức vượt lên trên những giới hạn của sự hiểu
biết tầm thường của con người. Tuy thế, thái tử nhận thấy rằng chúng chưa phải
là thứ tuyệt đối; dù chúng được xưng tụng và ngưỡng vọng, nhưng chúng vẫn chưa
phải là cái đích cao quý nhất, sự giác ngộ và niết-bàn. Vì thế, thái tử đã chuyển
qua tu tập một phương pháp khác: phương pháp khổ hạnh và tự hành hạ xác thân
mình. Suốt 6 năm trường, thái tử đã nhịn đói và hành hạ xác thân, nhưng các
phương thức này đã không đem đến sự an bình mà đưa thái tử đến cận kề với cái
chết.
Thế rồi, một
hôm thái tử đã tự nghĩ rằng: “Suốt 6 năm qua mình đã thực hành thiền định và khổ
hạnh ép xác, tìm kiếm chân lý bên ngoài bản thân mình. Nhưng mình đã thất bại,
đã không đạt được mục đích. Có lẽ là mục đích ấy, hiện thực ấy, Niết-bàn, nó
không nằm ở bên ngoài mà là ở bên trong tâm thức của mình”. Suy nghĩ như vậy
nên thái tử đã từ bỏ việc tìm kiếm Niết-bàn như là một thứ gì đó có thể đạt được
từ bên ngoài và quay trở về với nội tâm của mình, tìm kiếm chân lý trong chính
bản thân. Thái tử đã từ giã những vị thầy yoga, từ giã những người bạn tu khổ hạnh,
ra đi một mình, ngồi dưới một gốc cây và bắt đầu thực hành thiền định theo một
phương thức mới, “không tìm kiếm chân lý từ bên ngoài mà là từ bên trong”. Thái
tử đã thể hiện sự quyết tâm dõng mãnh qua lời nguyện: “Nếu tôi không thành công
với phương pháp tu tập này, tôi sẽ không đứng dậy khỏi chỗ này”. Thái tử đã thực
tập phương pháp hướng nội này suốt 49 ngày, cho đến một hôm hoát nhiên chứng ngộ
và trở thành một bậc Giác ngộ, thành Phật. Bằng cách hướng sự quán chiếu quay
vào bên trong, thái tử đã khám phá ra được bản chất đích thực của bản thân, Phật
tính, và trở thành một vị Phật. Sự kiện này đánh dấu khởi nguyên của Thiền
trong Phật giáo.
Điểm khác biệt
trong sự thực hành của Đức Phật lúc Ngài đạt được giác ngộ chính là sự quán chiếu
nội tâm. Đây là phương pháp Thiền trong Phật giáo và điều này cũng chứng tỏ sự
khác nhau giữa Thiền của Phật giáo với những tôn giáo khác, cũng như với những
phương pháp tu tập tâm linh khác. Hầu hết những tôn giáo khác cho rằng có một Đấng
siêu nhiên ở trên nhân loại và bảo người ta cầu nguyện và tôn thờ Đấng siêu
nhiên ấy, điều này ngụ ý rằng chân lý được tìm thấy từ bên ngoài. Phương pháp của
Thiền thì khác nhiều, bởi Thiền cho rằng chân lý chỉ có thể tìm thấy từ bên trong
nội tâm của mỗi người chứ không phải từ bên ngoài. Chân lý chỉ có thể tìm thấy
từ trong bản chất của chính chúng ta chứ không phải từ một nơi nào khác. Mọi
loài hữu tình đều có Phật tính ở bên trong bản thân họ, hạt giống của sự giác
ngộ. Trở thành một vị Phật tức là khám phá Phật tính này, nó luôn hiện hữu
trong mỗi chúng sanh, và nó mãi mãi tỏa sáng. Nó cũng giống như mặt trăng hay mặt
trời. Mặt trăng và mặt trời luôn luôn chiếu sáng và đem ánh sáng đến cho trái đất,
nhưng khi chúng bị những đám mây che phủ, chúng ta không thể thấy ánh trăng hay
ánh mặt trời nữa. Mục đích là loại bỏ những đám mây đó, bởi vì một khi những
đám mây bay đi khỏi thì chúng ta có thể thấy ánh sáng trở lại. Cũng tương tự
như thế, trong chúng ta luôn luôn có Phật tính, nhưng khi những ham muốn và những
chấp trước của chúng ta che phủ lấy nó, nó không xuất hiện. Tại vì tâm của
chúng ta luôn luôn bị chiếm cứ bởi những tư tưởng khó điều phục - những ý nghĩ
về sự lo âu, về hạnh phúc, ghen ghét, hờn giận, về bạn và thù - cho nên chúng
ta không thể khám phá ra được Phật tính ở bên trong. Tuy nhiên, khi chúng ta
khám phá ra được nó thì nó cũng không có gì mới cả. Khi điều này diễn ra, sẽ
không có gì khác giữa chúng ta với Đức Phật. Đức Phật không phải là một vị thần
hay là một đấng siêu nhiên nào đó. Cũng giống như chúng ta, Ngài vốn là một con
người. Sự khác nhau giữa Đức Phật và một người bình thường đơn giản là Đức Phật
đã nhận diện được Phật tính của mình còn chúng sanh thì vẫn còn mê mờ về nó.
Tuy nhiên, dù cho chúng ta tỉnh giác hay mê mờ, Phật tính vẫn luôn hiện hữu một
cách bình đẳng trong tất cả chúng sanh. Vì thế, dù cho chúng sanh bị vô minh
che phủ dày đặc nhất cũng vẫn có khả năng thành Phật.
Bởi vì tất cả
chúng sanh đều có khả năng giác ngộ nên họ có thể được xem như là những vị Phật
tương lai, và trong bản chất sâu kín nhất, họ vốn đã là những vị Phật. Vì thế,
khi chúng ta chào nhau ở trong các chùa hay các thiền viện, chúng ta không bắt
tay mà là chắp hai bàn tay lại với nhau để thể hiện lòng tôn kính đối với nhau.
Tại sao chúng ta làm điều này? Chúng ta làm thế bởi vì những người mà chúng ta
gặp là những vị Phật tương lai. Về phương diện tâm linh, đằng sau những khác biệt
bên ngoài như là về màu da, chủng tộc, giới tính, quốc gia, mọi người đều bình
đẳng, mọi người đều có Phật tính. Khi Bồ tát Tất Đạt Đa đạt được sự giác ngộ,
Ngài đã nhận ra rằng Phật tính luôn hiện hữu một cách bình đẳng trong tất cả
các loài hữu tình. Vì thế, suốt cuộc đời Ngài luôn chỉ dạy rằng tất cả chúng
sanh, về cơ bản, đều như nhau và nên đối xử với nhau một cách bình đẳng, không
phân biệt. Ngài đã phản đối lại hệ thống đẳng cấp vốn phổ biến rộng khắp trong
xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, một hệ thống đã phân chia con người thành những nhóm
cố định dựa trên nền tảng của những phân biệt do chính con người tạo ra. Ngài
đã dạy rằng: “Cũng như nước của những con sông lớn, khi nó đổ vào đại dương bao
la, nó không còn mang tên riêng của nó nữa mà được gọi với một cái tên là đại
dương, cho nên những người thuộc bốn giai cấp - những người thuộc tăng lớp quý
tộc (Sát-đế-lợi), những người Bà-la-môn, những vị thương gia, những người bị áp
bức (Thủ-đà-la) - khi gia nhập tăng đoàn, họ từ bỏ dòng tộc vốn có của họ và chỉ
được xem là những Phật tử”. Phản đối hệ thống đẳng cấp áp bức này, Đức Phật đã
khẳng định sự bình đẳng của con người - sự bình đẳng giữa người với người và sự
bình đẳng giữa người với Phật.
Mỗi ngày tất
cả chúng ta đều làm việc rất tích cực. Một số người thì kiếm tiền, số khác thì
tìm cầu danh vọng, và một số khác nữa thì tìm kiếm quyền lực, sự khoái lạc và
xa hoa. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta quần quật suốt ngày với những công việc nặng
nhọc, chúng ta hiếm khi làm một công việc nào đó cho bản thân mình. Chỉ những
lúc hiếm hoi chúng ta mới hướng sự quan tâm đến ngoại cảnh của chúng ta, trở về
với sự tư duy hướng nội dựa trên ánh sáng của sự tỉnh thức. Chúng ta không nhìn
phía trên, không nhìn phía dưới, chúng ta không nhìn phía Đông hay phía Tây,
không nhìn phía Bắc hay Nam; chúng ta nhìn vào bên trong tự thân mình, bởi bên
trong bản thân này có một trọng tâm mà từ đó toàn bộ vũ trụ này quay xung quanh
nó. Đây chính là phương pháp của Thiền đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy
lần đầu tiên cách đây hơn 2.500 năm.
Tuy nhiên,
phương pháp phân tích nội tâm, quán xét tự thân, khám phá bản thân trong Thiền
của Phật giáo không hề có ngụ ý là chúng ta phải từ bỏ hết các mối quan hệ với
những người thân quen của mình. Thực hành Thiền không có nghĩa là trở nên cô lập
trong một cái lồng hay một cái vỏ bọc mà là trở nên cởi mở và không bị ràng buộc
trong các mối quan hệ của chúng ta với những người xung quanh. Việc tìm kiếm sự
giải thoát, giác ngộ thường giống như là sự phát triển tương ứng về một hình thức
mới trong mối liên hệ với người khác, một hình thức được tưới tẩm bởi lòng bi mẫn,
tình thương yêu và cảm thông đối với tất cả những gì đang hiện hữu. Và việc
thành tựu đạo quả giải thoát thường giống như là kết quả của sự đơm hoa kết
trái đồng thời của thái độ mới này. Cho nên chúng ta thấy trong cuộc đời của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi chứng ngộ, Ngài đã phát nguyện cứu khổ cho muôn
loài chúng sanh, và sau khi chứng ngộ, Ngài đã không giữ thành quả giác ngộ ấy
cho riêng mình, mà trong suốt 49 năm, Ngài đã đi khắp các ngả đường của xứ Ấn Độ
để truyền giáo, thành lập Tăng đoàn, và đã làm việc rất tích cực để giảng dạy
và chuyển hóa chúng sanh.
Tình thương
yêu và lòng bi mẫn là hai thứ vô cùng quan trọng đối với con người, dù cho
chúng ta có nỗ lực hết mình để hướng đến sự tự cung tự cấp, vẫn tồn tại một sự
thật rằng mọi người đều cần đến người khác. Không có ai là một hòn đảo cả. Một
hòn đảo có thể tồn tại đơn lẻ ở giữa biển, nhưng một con người không thể sống
đơn độc. Chúng ta cần đến nhau, và chúng ta phải xem nhau như là những người bạn
và những người trợ giúp, những người mà chúng ta có thể tìm đến để hỗ trợ lẫn
nhau. Theo như thuyết tái sanh, thì thuyết này đã ngầm nói đến tất cả mọi người
thật sự là những người anh em của nhau, theo nghĩa đen, tức những thành viên
trong cùng một gia đình, bởi vì trong vòng luân hồi tái sinh trùng trùng điệp
điệp, không có người nam hay người nữ nào mà chưa từng một vài lần trong quá khứ
đã là cha chúng ta, là mẹ của chúng ta, hay là anh, là chị của chúng ta. Vì thế,
chúng ta phải thực tập thương yêu lẫn nhau, kính trọng nhau, bảo vệ lẫn nhau và
đem đến cho người khác những gì chúng ta muốn có cho bản thân mình. Thực tập
Thiền của Phật giáo tức là rèn luyện bản thân để loại trừ ghen ghét, sân hận,
ích kỷ, và phát triển tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh. Chúng ta có thân thể
vật lý và có cuộc sống của riêng mình, nhưng chúng ta vẫn có thể sống hòa hợp với
nhau và giúp đỡ lẫn nhau với tất cả khả năng. Nếu chúng ta không hạnh phúc khi
tiếp xúc với ai đó thì họ cũng sẽ cảm thấy không hạnh phúc, nhưng nếu chúng ta
hạnh phúc thì họ cũng sẽ chia sẻ niềm hạnh phúc đó với chúng ta.
Cuộc sống của
chúng ta có sự liên hệ mật thiết với nhau, không thể nào chia tách được. Bất cứ
điều gì chúng ta làm đều ảnh hưởng đến người khác và chúng cũng ảnh hưởng ngược
trở lại nơi chính chúng ta. Thương yêu thì khơi dậy thương yêu, thù hận thì
khơi dậy hận thù. Vì thế, Đức Phật dạy rằng: “Hận thù không thể nào xóa hết được
hận thù, chỉ có tình thương yêu mới có thể xóa bỏ được hận thù”. Điều này có
nghĩa là chúng ta không thể nào dùng hận thù để xóa bỏ hận thù, mà phải dùng
tình thương yêu. Chúng ta không thể dùng chiến tranh để chấm dứt chiến tranh,
mà chúng ta phải dùng tình thương yêu và tôn trọng lẫn nhau. Bởi vì chỉ có tình
thương yêu, tình thương yêu thầm lặng và nhẫn nại, mới có thể mở được những
cánh cửa đưa đến hòa bình.
Chính vì
tinh thần từ bi không biên giới mà đạo Phật đã truyền đi một cách yên bình từ
quê hương Ấn Độ, nơi đạo Phật được sinh ra, đến những vùng miền khác nhau trên
khắp thế giới. Trong Phật giáo có hai trường phái truyền thống, đó là trường
phái Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda hay Hīnayāna) và trường phái Phật giáo
Phát triển (Mahāyāna). Phật giáo Nguyên thủy phát triển mạnh ở Thái Lan, Lào,
Campuchia, Miến Điện, và Sri Lanka - những quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á. Còn
Phật giáo Phát triển thì được thực tập ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Mông Cổ và Việt Nam.
Trong hiện tại,
Phật giáo đã truyền từ châu Á sang châu Âu, bao gồm cả Hoa Kỳ, nơi hiện có nhiều
người đang nghiên cứu và thực tập những lời dạy của Đức Phật. Trường phái Phật
giáo có sức hấp dẫn nhất đối với người phương Tây chính là Thiền của Phật giáo,
thuộc truyền thống Phật giáo Phát triển. Tại sao lại là Thiền mà không phải một
pháp môn nào khác? Lý do chính là vì người phương Tây đã nhận thấy được giá trị
thực tiễn lớn lao của Thiền, sự đóng góp vĩ đại của phương pháp hành thiền đối
với đời sống hàng ngày của họ. Người phương Tây luôn luôn bận rộn, luôn năng động,
toàn bộ sự chú ý của họ được tập trung vào nhiệm vụ chinh phục và làm chủ thế
giới bên ngoài. Thiền tập giúp cởi trói tâm của họ khỏi sự chiếm cứ quá mức bởi
những thứ bên ngoài và giúp họ tận hưởng niềm an vui và yên tĩnh thật sự đến từ
bên trong bản thân họ. Một lý do khác làm cho Thiền thu hút người phương Tây có
lẽ là ở sự thách thức mà Thiền tạo ra đối với trí thông minh của họ, một sự
thách thức mời gọi sự khám phá thêm và sự thực tập thật sự. Người phương Tây nặng
về lý trí, và thiền biểu hiện một triết lý đủ sâu sắc và phù hợp với những đòi
hỏi của trí năng của họ. Về bản chất thì con người có xu hướng lười biếng. Hầu
hết mọi người đều thích đi đến nhà thờ để cầu nguyện những Đấng siêu nhiên cứu
họ giúp hơn là tự mình cứu lấy mình. Trong thiền không chấp nhận sự trốn tránh
trách nhiệm theo kiểu đó, nó đòi hỏi hành giả phải suy nghĩ. Chúng ta hỏi: “Tôi
là ai? Ý nghĩa của cuộc sống là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Bản ngã đích
thực của tôi là gì?”. Thiền không cung cấp cho chúng ta những câu trả lời đã soạn
sẵn cho các câu hỏi này. Nhưng nó chỉ cho chúng ta phương pháp để từ đó chúng
ta có thể trả lời những câu hỏi ấy cho chính chúng ta, phương pháp tham thiền.
Cho đến nay,
nhiều người ở phương Tây đã hiểu nhầm về ý nghĩa của sự thực hành thiền. Có lẽ
khi một trong số những người bạn của chúng tôi thấy chúng tôi ngồi tham thiền,
họ sẽ hỏi chúng tôi tại sao chúng tôi lại lãng phí thời gian như thế. Đối với họ,
tham thiền là vô nghĩa. Nhưng đối với chúng tôi, những người thực hành tham thiền,
nó là một phần cốt yếu và đầy ý nghĩa trong cuộc sống. Suốt từ sáng đến tối, mỗi
ngày trong tuần, mỗi tuần trong tháng, mỗi tháng trong năm, chúng ta làm kinh
doanh hay nghề nghiệp của mình. Để tạo sự cân bằng cho cuộc sống, chúng ta cần
ngồi một cách yên tịnh, cần biết chấp nhận và chịu đựng hơn là tìm cách để kiềm
chế, học cách nhìn vào bên trong thay vì nhìn ra bên ngoài. Khi chúng ta làm việc
suốt ngày, chúng ta thường không phải làm việc vì một mục đích bên trong mà là
cho một thứ gì đó bên ngoài chúng ta. Chúng ta làm việc vì chúng ta muốn có tiền,
chúng ta cần tiền vì chúng ta muốn có một cuộc sống tốt hơn và tiện nghi hơn.
Nhưng khi chúng ta ngồi tham thiền, việc này không phải là vì bất cứ mọi mục
đích bên ngoài nào, mà là để chứng nghiệm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống
- để khám phá tự ngã của mình. Chân ngã là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Những
câu hỏi này đòi hỏi trí tuệ thông minh. Vì thế, hầu hết những người đến với Thiền
của Phật giáo là những người thông minh, điều này không có nghĩa là họ có bằng
cấp cao mà là họ có khả năng và sẵn lòng làm một loại hình công việc thuộc lý
trí và tâm linh mà Thiền yêu cầu đối với những hành giả thực hành theo phương
pháp của nó. Bởi vì phương pháp của Thiền không phải là phương pháp của sự cầu
nguyện, thờ phụng mà là phương pháp tham thiền. Điều này có nghĩa là có những
việc mà chính chúng ta phải thực tập, không ai có thể làm việc ấy thay cho
chúng ta được.
Tại sao
chúng ta phải tham thiền? Theo đạo Phật, tâm của chúng ta vận hành giống như một
con khỉ, không lúc nào yên nghỉ và luôn chạy nhảy; cho nên nó được gọi là “vọng
tâm”. Thông qua tham thiền, chúng ta giữ cho cái tâm vọng động ấy được yên, giữ
cho nó được bình thản, trầm lặng và trong sáng. Khi tâm chúng ta được an tịnh,
chúng ta sẽ nhận thấy rằng Đức Phật vốn tồn tại bên trong chúng ta, tất cả vũ
trụ cũng nằm bên trong chúng ta và rằng bản chất đích thực của chúng ta cùng với
Phật tính là một. Cho nên nhiệm vụ quan trọng nhất là giữ cho tâm của chúng ta
được yên tịnh, một nhiệm vụ dễ dàng để hiểu nhưng thực hiện nó thì không đơn giản
chút nào. Tuy nhiên, thực hành là điều quan trọng hơn hết, bản thân của sự hiểu
biết thì không là gì cả, sự áp dụng mới đáng giá hơn. Phương pháp của Thiền là
một phương pháp khoa học: Chúng ta học tập thông qua sự thực hành, thông qua sự
trải nghiệm của bản thân.
Điều quan trọng
nhất trong việc tham thiền là giữ cho tâm luôn luôn ở trong tình trạng được kiểm
soát, như thế thì nó có thể trở về trạng thái trầm lắng và yên tịnh vốn có của
nó. Để điều hòa tâm, phương pháp đầu tiên và hiệu quả nhất chính là ý thức về
hơi thở. Chỉ đếm hơi thở, không có gì nữa cả.
VEN. THICH THIEN
AN - Quảng Trí dịch
(Trích dịch
từ sách “Zen philosophy, Zen practice” của HT. Thích Thiên Ân, Dharma
Publishing and College of Oriental studies xuất bản, America, 1975)