Ðau khổ vì đời sống là vô-thường, là
sắc thái thứ nhì của Dukkha. Khi mà tất cả mọi sự vật đều biến đổi,
không có gì ổn định, không có gì bền vững, không có gì tồn tại giống hệt nhau
trong hai khoảnh khắc thì hậu quả dĩ nhiên là trạng thái vô-thường, bất ổn, bất
định, bất điều hòa, những khía cạnh khác nhau của đau khổ (Dukkha).
Chính sự biến đổi là dấu hiệu của Dukkha.
Ðau khổ là một cảm giác, danh từ
Phật-giáo là Thọ (Vedanã). Theo Vi-Diệu-Pháp (Abhidhamma) có năm
loại Thọ, tức năm loại cảm giác:
1) Thọ Hỷ (Somanassa ): Cảm
giác thích thú về tinh thần, hạnh-phúc, như khi nhận được một tin lành, nghe
một bài pháp thích thú, xem một bức tranh đẹp, vv ...
2) Thọ Khổ (Domanassa ): Cảm
giác đau khổ về tinh thần như khi nhận được bạo tin hay nghe những lời nói hung
tợn, thấy những cảnh tượng bạo tàn, vv ...
3) Thọ Lạc (Sukha ): Cảm giác
thích thú về thể xác như khi dùng một bửa cơm ngon, nằm giường êm, ngủ trong phòng
có điều hòa không khí, vv ...
4) Dukkha: Cảm giác đau đớn,
thiếu tiện nghi như ngồi chật hẹp trên một chiếc xe cũ kỹ, đi ngoài nắng, uống
thuốc đắng, vv ...
5) Thọ xả (Upekkhã ): Cảm
giác vô ký, không vui, không khổ.
Trong thực tế, khi tinh thần được hạnh
phúc thì vật chất cũng được vui thích và trái lại, khi thể xác được thích thú
thì tinh thần cũng được khoan khoái. Vậy, ta có thể gom hai cảm giác vui thích
tinh thần và vật chất làm một, gọi chung là Sukkha. Cùng một thế ấy, ta gom hai
cảm giác đau khổ, tinh thần và vật chất, làm một và gọi chung là Dukkha.
Ðến đây Thọ hay cảm giác, còn ba:
- Cảm giác Vui Thích tinh thần và
vật chất: Sukkha
- Cảm giác Ðau Khổ tinh thần và vật chất: Dukkha
- Cảm giác Vô Ký: Upekkhã
- Cảm giác Ðau Khổ tinh thần và vật chất: Dukkha
- Cảm giác Vô Ký: Upekkhã
Trong ba cảm giác này Upekkhã
rất yếu ớt, hầu như không có. Ta có thể xem như không có cảm giác vô ký. Còn
lại hai cảm giác, vui thích và đau khổ, tinh thần cũng như vật chất. Nhưng
trong trạng thái luôn luôn biến đổi của mọi sự vật bên trong và bên ngoài, ta
không thể có hạnh-phúc vững chắc, tức không có hạnh-phúc thật sự. Trong khi
hoàn cảnh biến đổi và tất cả đều phải biến đổi, chính cái hương vị ngọt bùi của
hạnh-phúc cũng trở thành vị đắng cay của Dukkha. Vậy, rốt cùng chỉ còn
sự đau khổ, tinh thần và vật chất.
Thú vui được có tài sản sự nghiệp,
thú vui được lợi lộc, thú vui được danh thơm tiếng tốt, được vinh quang phú
quý, thú vui gia đình, thú vui với thân bằng quyến thuộc... thật là dễ chịu,
thích thú. Nhưng tất cả đều biến đổi và cuối cùng cái chết có thể chia rẽ tất
cả. Ðến chừng ấy nỗi sầu muộn cũng sẽ sâu đậm, tương đương với thú vui trước
kia.
Ông Gunaratna viết:
"Có người nào dám bảo rằng điều
may mắn sẽ không trở thành rủi ro và những điều kiện thỏa đáng sẽ tiếp tục còn
thỏa đáng? Ðặc tánh biến đổi luôn luôn tiềm tàng trong mọi sự vật. Chừng nào mà
đặc tánh này còn tồn tại thì chừng ấy lo sợ còn làm cho chúng ta đau khổ, vì
chúng ta không muốn những điều kiện thỏa đáng, ấy bị chấm dứt hay gián đoạn. Ðó
là sắc thái Viparinãma của đau khổ. Từ thủa bình minh của lịch sử nhân
loại, tình trạng bất an toàn của những gì tốt đẹp trong đời sống đã nói lên sự
đau khổ". Vua chúa lo sợ sự an toàn của ngôi vị mình. Người thường dân lo
sợ sự an toàn của mạng sống mình. Người tư bản lo sợ sự an toàn của sự nghiệp
mình. Người làm công lo sợ cho sự an toàn của công ăn việc làm của mình. Nếu
mọi sự vật đều biến đổi thì không thể có thanh bình và an toàn. Nếu không có
thanh bình và an toàn tức có xáo trộn, bất ổn và lo sợ. Và đó là đau khổ (Dukkha).
Chẳng những sự vật tạo thú vui phải
biến đổi mà chính người thọ hưởng thú vui ấy cũng luôn luôn biến đổi. Như vậy,
chúng ta đang mục kích cảnh tượng buồn cười, những chúng sanh luôn luôn biến
đổi cố gắng rượt theo và bám lấy những vật cũng luôn luôn biến đổi, hình ảnh
một cái bóng chạy theo và cố chụp cho được một cái bóng khác. Về điểm này Ðại-
Ðức Piyadassi giải thích:
"Xuyên qua khả năng nhạy của
giác quan (Lục-Căn) con người bị ngoại cảnh, đối tượng của giác quan
(Lục-Trần), thu hút và thích thú trong ấy. Do đó phát sanh sự thọ hưởng hay
trạng thái hoan-hỷ trong lục-trần. Ðó là sự kiện hiển nhiên, không thể phủ
nhận, vì tất cả chúng ta đều thường xuyên chứng nghiệm. Tuy nhiên, cả hai sự
thọ hưởng và đối tượng thích thú của nó, đều không thể tồn tại lâu dài. Cả hai
đều phải biến đổi. Bây giờ, khi người kia không thể giữ lại được, hay bị mất đi
những lạc thú, theo lẽ thông thường thì người ấy buồn rầu, sầu muộn, thất vọng.
Người ấy cũng không thích cái gì nhàm chán và luôn luôn đi tìm những thích thú
mới, giống như những con bò thả ăn ngoài đồng, luôn luôn đi tìm bãi cỏ mới.
Nhưng đặc tánh của những thích thú mới cũng là vô-thường, tạm bợ, tồn tại nhất
thời rồi trôi qua.
Như thế, những lạc thú của đời sống, dầu ta thích thú nó
cùng không, vẫn là bước đầu, mở đường vào trạng thái đau khổ " (The
Buddha's Ancient Path).
Trong quyển The Buddha and His
Teachings (Ðức Phật và Phật Pháp), Ðại-Ðức Nãrada viết:
"Hạng người thường chỉ thấy lớp
ngoài nhưng bậc Thánh-nhân thấy được thực tướng của sự vật. Ðối với các Ngài
tất cả đời sống đều là khổ và các Ngài nhận thấy rằng không thể có hạnh-phúc
thật sự, hoàn toàn bền vững, trong một thế-gian huyền ảo, tạm bợ và vô-thường.
Không thể có hạnh-phúc trường tồn vĩnh cửu trong một thế-gian luôn luôn biến
đổi. Hạnh-phúc vật chất chỉ là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa
đạt được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Dục vọng không khi nào được thỏa mãn trọn vẹn.
Không bao giờ ta cho là đủ".
Hành Khổ (Sankhãra
Dukkhatã )
Sắc thái thứ ba của đau khổ là
Hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã). Hành (Sankhãra) là một danh từ có
rất nhiều ý nghĩa. Ở đây, danh từ này bao hàm tất cả những gì được cấu tạo do
nhiều nguyên nhân cùng hợp lại, một cấu hợp, một nhóm, một khối. Theo Phật-giáo
con người là sự cấu hợp của hai thành phần: Danh và Sắc, phần tâm linh và phần
vật chất.
Về phần vật chất như đã thảo luận
rộng rãi trong bài Vô-thường, với khoa học hiện đại ta biết rằng thể xác của
chúng ta là sự cấu hợp của nhiều tế bào, tế bào là sự cấu hợp của nhiều nguyên
tử và nguyên tử bao gồm âm điện tử, dương điện tử, trung hòa điện tử, những
thành phần luôn luôn biến đổi, luôn luôn di động, từng giây, từng khoảnh khắc.
Như vậy, con người, sự cấu hợp của vô số những thành phần luôn luôn biến đổi,
tức cũng không ngừng biến đổi.
Hơn 2500 năm về trước, Ðức-Phật dạy
rằng: "Hai thành phần Danh và Sắc, tâm và vật chất, ở trong trạng thái
luôn luôn di động". Dựa theo Tạng-Luận (Abhidhamma Pitaka) Ðại-Ðức Nãrada
giải thích sự biến đổi của vật chất như sau: "Từ ngàn xưa những nhà hiền
triết Ấn-Ðộ cũng tin có một nguyên tử bất khả phân tán gọi là "Paramanu".
Một hột bụi nhỏ mà ta thấy vỡn vơ trong làn ánh sáng được gọi là "Ratharenu".
Một Ratharenu chia làm 36 "Tajjaris", một Tajjari
chia làm 36 "Anus" và một Anus chia làm 36 "Paramanus".
Vậy nếu ta chia hột bụi nhỏ kia làm 46656 phần thì một phần nhỏ bé ấy là Paramanu.
Theo quan niệm thời bấy giờ thì Paramanu là đơn vị vi tế nhất của vật
chất, không thể còn phân tách được nữa.
Với nhãn quan siêu phàm, Ðức-Phật
phân tách Paramanu và tuyên bố rằng Paramanu gồm có những năng
lực tương quan gọi là Paramattha hay thành phần chánh yếu của vật chất.
Những Paramattha ấy là Ðất (Pathãvi), nước (ãpo), Lửa (Tejo)
và Gió (Vãyo), được gọi là tứ đại chánh yếu hay tứ đại. Tứ đại: Ðất,
Nước, Lửa, Gió là những đơn vị căn bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn với bốn
chuyển hóa là màu Sắc (Vanna), Hương (Gandha), Vị (Rasa)
và bản chất dinh dưỡng (Ojã)...
Tứ đại và bốn chuyển hóa luôn luôn
dính liền nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng trong một loại vật
chất thành phần này có thể trội hơn thành phần khác. Thí dụ như trong đất thành
phần Ðất (Pathãvi) trội hơn ba thành phần kia. Trong nước thì thành phần
Nước (ãpo) trội hơn. Trong lửa thì thành phần Lửa (Tejo) trội hơn
và trong không khí thì thành phần Gió (Vãyo) trội hơn. Như vậy, vật chất
gồm có những năng lực và những đặc tính trong trạng thái liên tục biến đổi,
luôn luôn trôi chảy như một giòng suối".
Về phần tâm linh, Ðại-Ðức Nãrada
viết:
"Tâm, thành phần quan trọng hơn
trong guồng máy phức tạp của con người, gồm có 52 trạng thái tâm gọi là tâm sở,
luôn luôn biến đổi. Thọ (Vedanã) hay cảm giác là một. Tưởng (Sannã)
hay tri giác là một tâm sở khác. 50 Tâm sở còn lại được gọi chung là Hành (Sankhãra)
hay những sinh hoạt có tác ý của tâm. Tất cả 52 tâm sở đều phát sanh trong Thức
(Vinnãna).
Theo triết học Phật-giáo không có
một khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống không, nghĩa là không có khoảnh khắc
nào mà không có một loại tâm duyên theo một đối tượng, vật chất hay tinh thần.
Thời-gian tồn tại của một loại tâm như vậy gọi là chập tư-tưởng hay sát-na tâm.
Khi một chập tư-tưởng diệt tức khắc có một chập mới phát sanh. Như vậy, những
chập tư-tưởng liên tục nối tiếp và thời gian tồn tại của một chập tư-tưởng thật
ngắn, khó mà quan niệm được.
Mỗi chập tư-tưởng gồm ba giai đoạn:
Sanh (Uppãda), Trụ (Thiti) và Diệt (Bhanga). Ngay khi một
chập tư-tưởng vừa trải qua giai đoạn Diệt (Bhanga) tức khắc giai đoạn
Sanh (Uppãda) của chập tư-tưởng kế nổi lên. Trong tiến trình luôn luôn
biến đổi của đời sống, mỗi chập tư-tưởng, khi diệt, chuyển tất cả năng lực và
tất cả những cảm giác đã thâu nhận cho chập tư-tưởng kế. Một chập tư-tưởng mới
bao gồm những tiềm năng do chập tư-tưởng trước trao lại và thêm vào đó, còn có
cái gì khác nữa, và cái đó là kinh nghiệm và cảm giác riêng của nó. Như vậy có
sự luân lưu không ngừng của tâm. Luồng tâm giống như giòng suối luôn luôn trôi
chảy.
Chập tư-tưởng mới không hoàn toàn giống như chập tư-tưởng trước, bởi vì
thành phần cấu tạo đã đổi mới mà cũng không hoàn toàn khác, bởi vì cả hai đều
cùng nằm trong một luồng sống, một giòng đời. Không có chúng sanh đồng nhất
nhưng có sự đồng nhất trong tiến trình đời sống của chúng sanh".
Bốn loại hiện tượng tâm lý: Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, hợp với hiện tượng vật chất, sắc, tạo nên ngũ-uẩn hay năm
nhóm, năm khối, năm thành phần cấu tạo một chúng sanh. Mỗi cá nhân là sự cấu
tạo của năm nhóm ấy.
Như vậy, thể xác con người không
phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi, mà là một tiến
trình luôn luôn tiếp diễn. Tâm cũng luôn luôn biến đổi như một sự tiếp nối liên
tục, một giòng sông luôn luôn trôi chảy và không bao giờ tồn tại giống hệt nhau
trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Mỗi giây, mỗi khoảnh khắc trôi qua thì ở một
điểm nước cũng trôi đi, nhường chỗ cho nước từ một điểm khác trôi đến. Ðiều này
đưa ta đến kết luận: danh-sắc hay sự cấu thành của tâm và thể xác, cấu thành
chúng sanh phức tạp mà ta gọi là con người không phải là một thực thể tự mình có
khả năng tồn tại vĩnh cửu mà chỉ là một tiến trình liên tục diễn tiến. Ðã là
một tiến trình thì nó là cái gì luôn luôn biến đổi, không tồn tại lâu dài.
Chính vì lẽ ấy mà nó là đau khổ (Dukkha). Vậy sự đau khổ dính liền với
con người trong sự cấu thành con người. Chính bản chất của khối ngũ-uẩn là đau
khổ (Dukkha). Ðó là sắc thái hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã).
Từ ngàn xưa, không phải chỉ con
người mà tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài, đều mưu tìm hạnh-phúc và cố
tránh đau khổ. Ðến nay, ta có thể nhìn quanh và xác nhận rằng sự kiện này vẫn
còn. Và trong tương lai, có ai còn hoài nghi chăng rằng chúng ta sẽ còn tiếp
tục theo đuổi mục tiêu huyền ảo ấy? Chúng ta tận lực làm đủ mọi việc và ước
mong sẽ chứng nghiệm Thọ lạc, tránh khỏi Thọ khổ, tinh thần cũng như vật chất.
Phần lớn chúng ta hướng ra ngoài và cố gắng đổi thay hoàn cảnh bên ngoài để
thỏa mãn những sở thích của mình. Lẽ dĩ nhiên, đó chỉ là củ cải mà người ta
treo lủng lẳng trước đầu con lừa.
Lừa nỗ lực bước tới để táp lấy cải nhưng
không bao giờ được. Khi đề cập đến vấn đề đau khổ của kiếp nhân sinh Ðại Ðức Nãrada
viết: "Hạnh-phúc thật sự nằm bên trong chúng ta và không thể định nghĩa
bằng những danh từ như tài sản, sự nghiệp, quyền thế, danh vọng hay chinh phục,
xâm lăng, chiếm đoạt. Nếu sự nghiệp vật chất ấy được thâu đoạt bằng bạo lực,
cường quyền hay bằng một phương tiện bất công nào khác, hoặc giả, nếu sự nghiệp
vật chất ấy được hướng theo một chiều hướng lầm lạc hay nếu ta đem lòng luyến
ái, dính mắc, trìu mến nó thì đó chính là nguồn đau khổ, lo âu và phiền muộn,
cho người làm chủ nó. Ðối với người thường, Thọ hưởng dục lạc của ngũ-trần là
hạnh-phúc tốt đẹp duy nhất. Chắc chắn là có thích thú nhất thời trong khi ta mơ
ước, lúc Thọ hưởng và khi hồi nhớ lại những khoái lạc vật chất tương tợ. Nhưng
hạnh-phúc ấy quả thật là huyền ảo và tạm bợ. Theo Ðức-Phật, không luyến ái, tức
vượt lên trên mọi dục lạc là hạnh-phúc tối thượng".
Hình như tất cả mọi người đều nhận
thức rằng trong đời sống hạnh-phúc quả thật hiếm hoi mà đau khổ thì rất nhiều.
Nhưng, trước cái khổ mỗi người, mỗi giới có một thái độ riêng.
Có hạng người lý trí hóa sự khổ,
dùng lý trí phân tách, suy luận, giải thích cái khổ. Có hạng người khác thần
thánh hóa sự khổ, cho rằng khổ là điều kiện tất yếu để con người vươn lên như
những đóa hoa sen, từ bùn nhơ nước đục vượt đến chỗ thanh khí an lành và rực rỡ
nở tung trong ánh nắng ban mai. Có người, tuy cũng nhận định rằng đời là khổ
nhưng cố tình lãng quên để yên tâm tận hưởng chút ít lạc thú nào của đời sống.
Cũng có người nhận thấy cái khổ rồi ủ dột âu sầu, sanh ra yếm thế bi quan.
Chúng ta không nên tự lường gạt
mình, cố tình hiểu rằng không bao giờ có hoàn cảnh khổ đau trên thế-gian. Ðó là
phương cách của chim đà điểu, khi thấy có hiểm nguy sắp đến thì vội vã cắm mỏ
lùi trong cát để không thấy nữa, một phương cách lánh nguy không mang lại hiệu
quả. Chúng ta phải mở rộng mắt nhìn thẳng vào vấn đề đau khổ. Khi ta chấp nhận
rằng đã từ lâu mình mãi cặm cụi vát trên vai bao nhiêu ưu phiền và đau khổ thì
chừng đó ta sẵn sàng buông xuống gánh nặng để khoan thai rảo bước trên con
đường đưa đến tự do và hạnh-phúc thật sự trường cửu.
Phật-giáo nhận cái khổ như một sự
kiện sẵn có và dính liền với đời sống. Nhưng Ðức-Phật không dừng bước tại đây
để buồn rầu hay để cầu nguyện cho chúng sanh. Như vị lương y, khi nhận thấy và
xác nhận rằng thật sự có bệnh thì tìm phăng lên nguyên nhân của chứng bệnh và
sau khi xác nhận rằng chứng bệnh có thể chữa trị, kê toa và chỉ dạy bệnh nhân
phương thức trị liệu thích hợp.
Cùng thế ấy, Ðức-Phật xác nhận đau khổ là chứng
bệnh trầm kha của chúng sanh, ái dục là nguồn gốc của đau khổ, ái dục có thể
tận diệt và phương thức diệt trừ ái dục, chấm dứt đau khổ, là Bát Chánh Ðạo gồm
Giới - Ðịnh - Tuệ.
Như vậy, Phật-giáo không bi quan,
cũng không lạc quan, mà chỉ thực tiễn. Người Phật-tử không tự dối mình mà cho
rằng thế-gian này quả thật là cảnh giới mong mỏi và hạnh-phúc vẫn phảng phất
đâu đây. Phật-giáo không hề khuyên bảo chúng ta phải tin rằng mọi việc đều tốt
đẹp trong kiếp sống này hay trong kiếp tới. Phật-giáo không mê hoặc con người
bằng những liều thuốc ngủ: "Con hãy uống viên thuốc này, khi Tử-thần đến,
liều thuốc sẽ cứu con tỉnh dậy và con sẽ sống vĩnh cửu, mãi mãi đẹp đẽ và vinh
quang".
Người Phật-tử có thái độ của người
thấy con rắn bò dưới chân, tự nhủ rằng đây là một sinh vật nguy hiểm, phải tìm
cách lánh xa nó, chớ không âu sầu, ngồi yên một chỗ để than khóc vái van, hay
tự đối mình, mãi mê vui chơi việc khác và lờ hẳn thực tế. Hành động như vậy
cũng không phải là đào tẩu, vì đào tẩu là lẫn trốn, sợ bỏ chạy, không dám ứng
phó với những bất hạnh của đời sống. Người đào tẩu khác hẳn với người biết suy
luận đang nỗ lực chạy thoát, hoặc tìm đường chạy thoát ra khỏi cảnh hiểm nguy.
Hằng ngày ta có thể nhận định tánh
cách vô-thường của vạn pháp. Hoa nở rồi tàn. Con người sanh ra, trưởng thành
rồi chết. Mọi sự vật đều luôn luôn biến đổi. Không có cái chi tồn tại vừng bền
trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Do lý vô-thường có đau khổ. Ðau khổ là sự kiện
dĩ nhiên, một thực tế của đời sống. Phật-giáo dạy chúng ta tận dụng khả năng để
quan sát, suy luận và đối phó với thực tế.
Trong bộ Samyutta Nikãya, Tạp
A Hàm, có tích chuyện như sau:
Một lần nọ, Ðức-Phật ngự tại Kosambi
(Câu Ðàm Di) trong khu rừng cây Simsapa. Lúc ấy, nắm trong tay một nắm
lá, Ngài ngỏ lời cùng các vị Tỳ-Khưu như sau:
"Các con nghĩ thế nào, này chư
Tỳ-Khưu, số lá nằm trong tay Như-Lai và số lá trên cây, trong toàn thể khu rừng
này, số nào lớn hơn?
- Bạch Hóa Ðức Thế-Tôn, số lá nằm
trong tay Ngài hẳn thật không bao nhiêu nhưng lá trên cây, trong toàn thể khu
rừng thì rất nhiều"
"Cùng thế ấy, này chư Tỳ-Khưu,
những gì Như-Lai chứng ngộ mà không truyền dạy thật là nhiều, như lá trên cây.
Chỉ một ít những gì Như-Lai truyền dạy. Tại sao? Này chư Tỳ-Khưu, tại sao
Như-Lai không truyền dạy tất cả? Này chư Tỳ-Khưu, là bởi vì những điều ấy quả
thật vô-ích, không thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết. Những
điều ấy không dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn,
giác ngộ, Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai không công bố những điều ấy.
Và, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố những gì?
- Ðây là đau khổ, điều này Như-Lai
công bố.
- Ðây là sự khởi phát của đau khổ,
điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là sự chấm dứt đau khổ, điều
này Như-Lai công bố.
- Ðây là con đường dẫn đến sự chấm
dứt đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
Và tại sao, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai
công bố những chân lý ấy? Bởi vì các chân lý ấy hữu ích, thiết yếu để có một
đời sống trong sạch, tinh khiết, dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh,
thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ và Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công
bố các chân-lý ấy".