Phương pháp thực hành này làm việc với toàn bộ nhân cách con người, về mọi phương diện tinh thần và thể chất, bao gồm toàn bộ thế giới kinh nghiệm[1][9] của người đó. Phương pháp quán
chiếu với nhiều loại đề mục khác nhau trên chính bản thân
mình (ajjhattai-nội xứ) và trên người khác (bahiddhā- ngoại xứ), thay đổi qua lại giữa nội xứ và ngoại xứ sẽ làm bộc lộ những quan niệm sai lầm do định hướng sai dòng
suy nghĩ liên tưởng và áp dụng sai những suy luận dựa trên sự giống nhau.
Những loại suy nghĩ
liên tưởng sai lầm, theo
thuật ngữ Phật học, là
do bốn loại điên đảo tưởng (vipallāsa) hay
cách nhận thức sai lầm:
1. Thấy vô thường là thường
2. Thấy khổ là lạc
3. Thấy vô
ngã là ngã
4. Thấy bất tịnh là tịnh
Những tà
kiến này sanh khởi thông
qua sự nhận biết sai lầm về các đặc tướng của mọi sự việc. Dưới ảnh hưởng của các cảm xúc và nhận thức sai lầm, chúng ta nhận biết sự việc một cách phiến diện, sai trái,
và sai lầm khi gắn liền chúng với những quan niệm khác. Bằng cách ghi
nhận thuần túy mọi sự nhận thức và các cảm nhận giác quan,
dần dần chúng ta sẽ giải thoát chúng khỏi những nhận thức sai lầm đó, và tiến bước vững chắc tới sự nhận thức trực tiếp về mọi sự việc như chúng đang là.
Động tâm
– cảm giác về sự khẩn cấp
Người có nhận thức trực tiếp và trong sáng, khi khởi lên cảm giác khẩn cấp (động tâm) từ những sự việc gây xúc động sâu sắc, sẽ kinh nghiệm một sự giải phóng năng lượng và lòng can đảm, giúp anh
ta vượt qua được sự do dự, e dè và những
thông lệ cứng nhắc trong
cuộc sống và
suy nghĩ. Nếu cảm giác động tâm về sự khẩn cấp ấy được duy trì, nó
sẽ đem đến nhiệt tâm và lòng
kiên trì, bền bỉ cần phải có
cho công việc giải
thoát. Do đó các vị trưởng lão thời xưa đã nói:
Chính thế gian này là trú xứ của các hành động của chúng ta.
Đạo lộ cao thượng sẽ được mở ra từ nơi đó,
Cùng bao nhiêu thứ để phá vỡ lòng tự mãn.
Hãy động tâm
với những gì
đáng động tâm,
Khi đã động tâm,
hãy gắng sức một cách
trí tuệ và chiến đấu!
Môi trường xung quanh
chúng ta đầy rẫy những điều để khởi lên động tâm. Nếu chúng ta không nhận ra được điều đó, là bởi vì thói
quen đã làm cho cái nhìn của chúng
ta mê mờ, si muội và
trái tim ta chai lì, không còn nhạy cảm nữa.
Ngay cả đối với những lời dạy của Đức Phật, điều như vậy cũng xảy ra với chúng ta. Lần đầu gặp Phật Pháp, về cảm xúc và tri thức chúng ta cảm thấy vô cùng hoan hỷ và nhiệt tâm; nhưng dần dần niềm hoan
hỷ đó mất dần động lực và sự mới mẻ ban đầu. Giải pháp là
chúng ta phải thường xuyên làm mới nhiệt tâm ấy bằng cách quay
lại với cuộc sống tràn đầy xung quanh mình, cuộc sống ấy đang
khắc họa Bốn Chân
lý cao thượng với những biến tấu đầy mới mẻ.
Một sự nhận thức trực tiếp sẽ mang đến dòng máu mới cho
thậm chí đến cả những kinh nghiệm thường tình nhất trong
cuộc sống hàng
ngày, để bản chất thực của chúng hiện lên xuyên
qua màn sương mờ ảo của thói quen
và nói cho chúng ta bằng một giọng nói
mới mẻ. Nó có
thể là hình ảnh một người ăn mày quen
thuộc ở góc phố mỗi ngày, một đứa trẻ đang khóc hay một người bạn ốm đau. Những hình ảnh đó làm cho chúng ta giật mình
tỉnh thức, khiến chúng
ta phải suy nghĩ và khởi lên cảm giác
khẩn cấp phải quyết tâm bước đi trên đạo lộ giải thoát khổ đau.
Chúng ta đều đã biết câu
chuyện thái tử Siddhattha (Tất-Đạt-Đa) lần đầu nhìn
thấy cảnh đau,
già, bệnh, chết trên đường ra ngoài
thành du ngoạn, sau một thời gian dài
trong cuộc sống nhung lụa cách xa thực tế khổ đau. Câu chuyện này
có thể hoàn toàn có thật, bởi chúng
ta biết rằng
trong cuộc sống của rất nhiều con người vĩ đại, một sự việc thường tình có thể mang một ý
nghĩa quan trọng và dẫn đến những hệ quả to lớn vượt ra khỏi hình ảnh tầm thường của sự việc. Những tâm hồn vĩ đại tìm thấy ý
nghĩa ở những việc tưởng chừng như rất tầm thường và từ những phút giây thoáng qua ấy đem đến những tác
động lớn lao.
Song dù không đặt vấn đề hoài nghi sự thật đằng sau
câu chuyện cổ ấy, chúng ta cũng có thể nghĩ rằng thái
tử trẻ tuổi đã từng
chính mắt thực sự nhìn thấy cảnh người già, bệnh, chết trước đó. Tuy
nhiên, trong tất cả những dịp trước, ngài không
cảm thấy động tâm sâu sắc trước những hình ảnh đó - cũng giống như hầu hết chúng ta,
trong mọi lúc cũng vậy. Sự thiếu nhạy cảm đó có thể là do cuộc sống được bao bọc quá cẩn thận, đầy vui
thú dục lạc của hoàng
cung, một cuộc sống tách biệt khỏi thế giới thực tế bên ngoài mà vua cha đã sắp đặt. Chỉ khi thoát ra khỏi chiếc lồng vàng của các thói quen
dễ dãi đó thì thực tế khổ đau mới có thể khiến ngài động tâm đến mức như thể được nhìn thấy lần đầu tiên trong
đời. Chỉ khi đó trong tâm ngài mới khởi lên cảm giác về sự khẩn cấp, đưa ngài rời bỏ cuộc sống gia đình và dấn bước trên con đường tìm cầu giác
ngộ.
Khi tâm thức và trái tim
chúng ta đáp ứng lại sự thật của khổ hiện diện trong những sự kiện bình thường của kiếp sống càng rõ ràng và
sâu sắc bao nhiêu, thì chúng ta càng đỡ phải học lại những bài học giác ngộ của mình và hành trình luân hồi càng
ngắn lại bấy
nhiêu. Sự rõ ràng
của nhận thức kích hoạt hành động đáp ứng của chúng ta đến từ sự nhận thức trực tiếp không bị chệch hướng, có được từ ghi nhận thuần túy (sati-chánh
niệm); và chiều sâu của kinh nghiệm đến từ sự suy xét trí tuệ hay là sự tỉnh giác (sampajañña).
[1][9]
Kinh nghiệm với nghĩa cảm nhận, trải nghiệm những gì đang diễn ra trong hiện tại. Tõ kinh nghiÖm (experience)
trong thiÒn qu¸n lµ ®Ó chØ nh÷ng g× ®ang diÔn ra trong hiÖn t¹i, nh÷ng g× ch¸nh
niÖm quan s¸t ®îc ... ®ã cã thÓ lµ c¸c tiÕn tr×nh th©n hoÆc t©m nh h¬i thë,
c¶m gi¸c hay mét tiÕn tr×nh suy nghÜ, mét t©m s©n, t©m hû...khëi lªn trong qu¸
tr×nh quan s¸t. Kh«ng nªn hiÓu tõ kinh nghiÖm nµy theo nghÜa
b×nh thêng lµ c¸c kü
n¨ng, tri thøc thu thËp ®îc trong c«ng viÖc hoÆc ®êi sèng (kinh nghiÖm lµm
viÖc, kinh nghiÖm giao tiÕp...).