Thursday, January 14, 2016

Chức năng “dọn dẹp ngăn nắp”và “định danh”

 Dn dp ngăn np ngôi nhà tâm.

Mt người có ni tâm chưa được làm ch và không cân bng do chưa tng thc hành thin, khi nhìn vào các suy nghĩ và hot đng thường ngày ca chính mình s thy trong đó là c mt cnh tượng hn lon. Anh ta thy, ngoi tr mt s dòng suy nghĩ và hot đng có ch đích, còn  tt c mi nơi là s đan xen mc m hàng đng nhng dòng suy tưởng, nhn thc, cm xúc và nhng c đng thường xuyên, liên tc ca cơ th, mt tình trng ln xn, ri rm đến mc không th chu đng ni. Nhưng đó chính là tình trng mà chúng ta coi là điu bình thường trong phn ln thi gian thc và hot đng tinh thn hàng ngày ca mình. Bây gi chúng ta hãy th kho sát xem bc tranh ln xn đó trông như thế nào.

Đu tiên, chúng ta s gp phi mt s lượng ln các loi cm nhn giác quan thông thường như hình nh, âm thanh đang liên tc trôi qua tâm. Hu hết chúng đu ri rc và m nht; thm chí mt s còn da trên nhng đánh giá hoc cm nhn sai lm. Mang theo nhng khiếm khuyết c hu đó, chúng thường là cơ s không được kim chng đ cho ra nhng đánh giá hoc quyết đnh  tm mc tâm cao hơn. Đúng, tt c nhng cm nhn giác quan thông thường này không cn và cũng không th là đ mc đ thin sinh chú tâm. Mt hòn đá nm lăn lóc bên đường s ch khiến chúng ta phi chú ý khi nó cn tr đường đi hay thu hút s chú ý ca bn vì mt lý do nào đó. Tuy nhiên, nếu chúng ta thường xuyên quá lơ là đi vi nhng cm nhn giác quan này, thì có lúc s vp phi đá trên đường, hay b qua nhiu viên đá quý khác. 

Bên cnh nhng cm nhn giác quan thông thường đó, còn có nhng cm nhn, suy nghĩ, cm xúc và tác ý rõ ràng và có ý nghĩa – vn liên kết cht ch vi cuc sng có ch ý ca chúng ta.  đây cũng thế, chúng ta thy đa phn chúng  trong trng thái hoàn toàn ri bi. Hàng trăm suy nghĩ cht thoáng qua trong tâm, và  mi nơi là nhng “đu, mu” ca các dòng suy nghĩ đt đon, nhng trng thái tình cm b đè nén và nhng cm xúc thoáng qua. Rt nhiu trong s chúng đu chết yu. Bi vì bn cht m nht, mong manh bm sinh ca chúng, do sc tp trung kém ca chúng ta hoc s ln át ca các cm nhn giác quan mnh hơn, nên chúng không tn ti và phát trin lên được. Nếu quan sát tâm mình, chúng ta s thy các suy nghĩ đi hướng d dàng như thế nào, cách hành x ca chúng c như my đa con nít cãi nhau, liên tc ngt li nhau, không chu lng nghe đa khác nói. Nhiu dòng suy nghĩ li vn ch  giai đon sơ khai hoc b b qua không được th hin thành ý chí hay hành đng, bi vì không đ can đm đ chp nhn nhng hu qu thc tế v đo đc hay tri thc ca nó. Tiếp tc xem xét k hơn nhng cm nhn, suy nghĩ hay đánh giá thông thường ca mình, chúng ta s phi chp nhn mt điu rng phn nhiu trong s đó là không đáng tin cy. Chúng ch là nhng sn phm ca thói quen, b chi phi bi các loi đnh kiến: tri thc hay cm xúc[1][3], bi la chn yêu-ghét ca chính mình, bi s quan sát sai lm hay hi ht, bi tính lười biếng hay ích k.

Mt cái nhìn vào nhng góc kín b b quên t lâu trong tâm như vy s mang đến mt cú sc tt đi vi người quan sát. Nó thuyết phc anh ta rng yêu cu cp thiết bây gi là phi rèn luyn tâm mình mt cách bài bn, đào sâu xung bên dưới lp mng b mt ca tâm, ti nhng vùng tâm thc m o rng ln mà chúng ta va ghé thăm đó. Người quan sát khi đó s nhn ra rng vùng tâm thc nh l ra trước lung sáng ca ý chí và suy nghĩ có ch đích không phi là thước đo đáng tin cy sc mnh ni tâm và s sáng sut tng th ca tâm thc. Anh ta cũng thy rng không th đánh giá cht lượng tâm ca cá nhân ch da vào mt vài kết qu hot đng tâm thc tt nht đt được trong mt giai đon ngn ngi và gián đon nào đó. Nhân t quyết đnh đ xác đnh cht lượng tâm là s hiu biết bn thân và t kim soát chính mình như thế nào: s ý thc (chánh nim) trong tâm và b phn các hot đng không kim soát (vô thc) hàng ngày đang có xu hướng tăng lên hay gim đi. 

Chính s d duôi, lơ là nho nh trong suy nghĩ li nói và hành đng mi ngày, tri qua nhiu năm tháng trong cuc đi chúng ta (và như Đc Pht dy, qua nhiu kiếp sng) là th phm chính ca tình trng ln xn, ri rm mà chúng ta thy trong tâm mình. S d duôi này to ra rc ri và cho phép nhng rc ri y tiếp din. Chính vì vy mà nhng v trưởng lão thi xưa đã nói: “D duôi to ra rt nhiu bi bm. Trong nhà cũng như trong tâm, mt hai ngày mi ch có mt chút xíu bi bám vào, nhưng c tiếp din như thế nhiu năm, nó s tr thành mt đng rác khng l[2][4].

Nhng góc ln xn, ti tăm trong tâm là nơi n náu ca nhng k thù nguy him nht ca chúng ta. T nơi đó, chúng tn công mà chúng ta không h hay biết, và đánh bi chúng ta quá thường xuyên. Cái thế gii chng vng đó cha đng nhng khao khát không được tha mãn, nhng ni ut c b kìm nén, s dao đng, chp chn, nhng ý nghĩ cht thoáng qua, và rt nhiu hình nh m o, to nên mt cái nn mà t đó nhng cm xúc bt phát – tham, dc, sân hn, tc ti – tìm kiếm được sc h tr mnh m. Bên cnh đó, s m ti ca vùng chng vng y là mnh đt nuôi dưỡng và cũng chính là loi phin não gc (akusalamūla) th ba mnh nht - si.

Các c gng đon tr các loi phin não gc - tham, sân, si - s tht bi chng nào nhng phin não này vn tìm được ch trú ng và h tr  nhng vùng m ti không được kim soát ca tâm; chng nào nhng si suy nghĩ và cm xúc na vi, vn khít cht và phc tp, vn đan dt nên tm phông nn ca tâm, mà trong đó hiếm hoi mi đan xen vài si suy nghĩ sáng sut và cao thượng. Nhưng chúng ta phi x lý cái khi cng knh và ln xn y như thế nào đây? Thường thì chúng ta ch c gng l nó đi và da dm vào các xung lc đi tr ca lp tâm b mt. Nhưng phương thuc an toàn duy nht là đi din vi nó – bng chánh nim. Không có gì khó khăn c, ch cn huân tp thói quen hướng s chú ý, ghi nhn thun túy ti nhng suy nghĩ thô sơ đó càng thường xuyên càng tt. Nguyên lý hot đng  đây da trên mt s tht đơn gin là hai suy nghĩ không th tn ti trong cùng mt lúc: khi ánh sáng chánh nim có mt, s không có ch cho khong ti ca vô thc. Khi chánh nim liên tc đã có chân đng vng chc, thì vic phi đi phó như thế nào vi các suy nghĩ, cm xúc và trng thái tâm thô sơ y s ch còn là vn đ th yếu. Chúng ta có th ch cn gt b chúng và thay thế bng nhng suy nghĩ có ch đích khác; hay cho phép hoc thm chí buc chúng phi nói ra hết nhng gì chúng mun nói.  trường hp th hai, thường là chúng s bc l s nghèo nàn và yếu t thc s. Khi đó s không khó khăn đ buông b mt khi chúng đã b buc phi l din. Quy trình ghi nhn thun túy này rt đơn gin và hiu qu; cái khó ch là s kiên trì áp dng nó mt cách liên tc mà thôi.

Quan sát mt s vic phc tp có nghĩa là xác đnh nhng thành phn cu to nên nó, loi tr dn tng si dây nh đã dt nên c bó dây ri rm y. Nếu áp dng điu này vào trong dòng đi phc tp ca tâm mình và cuc sng thc tế, thì mt cách t đng, nh hưởng điu tiết mnh m ca nó s được nhn thy rt rõ. Như th ngượng ngùng trước mt cp mt quan sát trm tĩnh, các dòng suy nghĩ s bt vô t chc và bt thay đi bt thường hơn; chúng s không d b chuyn hướng na, và s ngày càng ging như mt dòng sông được điu tiết nước và hướng dòng cn thn.

Trong my chc năm cuc đi và xuyên sut vô s kiếp quá kh trôi lăn trong luân hi, trong mi con người chúng ta đã xây dng nên c mt h thng đan xen cht ch ca đnh kiến tri thc và đnh kiến cm xúc, nhng thói quen ca thân và tâm, mà không bao gi b tra vn xem chúng có nm đúng v trí hay không, có li ích gì trong cuc sng hay không.  đây, s thc hành ghi nhn thun túy li làm tơi mnh đt chai cng ca nhng lp đnh kiến, thói quen xưa cũ y trong tâm con người, chun b đt rung đ gieo nhng ht ging rèn luyn tâm. Ghi nhn thun túy xác đnh và truy theo tng si trong c bó dây dt khít ca các thói quen trong ta. Nó cn thn loi ra nhng s bin h cho cm xúc, và nhng đng cơ gi ca các đnh kiến. Không h s hãi, nó dám tra vn nhng thói quen cũ vn đã tr nên vô nghĩa. Nó phơi bày gc r ca chúng và do vy, giúp loi b tt c nhng điu nguy hi. Tóm li, ghi nhn thun túy làm bc l nhng k h vi tế ca cu trúc dường như không th xâm nhp ni ca các tiến trình tâm. Khi đó, thanh gươm trí tu, được s dng bi cánh tay mnh m ca s thc hành thin liên tc s xâm nhp vào nhng k h đó,  nhng ch cn thiết, và cui cùng s phá v toàn b cu trúc y. Mt khi đã hiu nhng mi liên h bên trong gia nhng phn riêng bit ca c cái “khi” dường như chc đc y, nó s không còn là không th tiếp cn được na.

Khi nhng s kin th hin bn cht b điu kin hóa ca tâm được thin tp vén m, thì cơ hi tác đng đến nhng thay đi cơ bn trong tâm s ngày càng ln. Theo cách đó, không nhng ch các thói quen ca tâm vn không bao gi b tra xét, nhng vùng m ti ca nó và nhng tiến trình tâm thung nht, mà c nhng s vic dường như chc chn, không th tranh cãi ca thế gii vt cht – tt c nhng th đó s b “tra xét li” và gim hn vic t khng đnh. Nhiu người đã b s t khng đnh ca các “s kin thc” t phong y gây n tượng và bt nt đến ni do d khi thc hành bt c phương pháp tu tp nào, nghi ng rng đó có phi là vic đáng làm hay không. Vic áp dng phương pháp ghi nhn thun túy vào nhim v thu dn ngăn np và un nn tâm s mang li nhng hiu qu thy rõ – xua tan đi ni nghi ng và khiến h thêm t tin bước đi trên con đường phát trin tâm linh.

Chúng ta nên nh, chc năng dn dp ngăn np và điu tiết tâm ca ghi nhn thun túy có ý nghĩa rt quan trng đ “thanh tnh hóa chúng sanh” như Đc Pht đã nói, là mc tiêu đu tiên ca thin T Nim X. Tt nhiên, ý đon kinh này mun nói đến s thanh lc tâm, và  đây, bước đu tiên là thiết lp trt t cho s vn hành ca các tiến trình tâm. Chúng ta đã thy điu này được ghi nhn thun túy tiến hành như thế nào. Chú gii kinh T Nim X gii thích câu “đ thanh tnh hóa chúng sanh” như sau:

Có li dy rng: “Các lu hoc làm ô nhim chúng sanh; minh trí thanh tnh hóa chúng sanh”. Minh trí đó đến qua con đường chánh nim.


Đt tên
Phn trên chúng ta đã nói rng ghi nhn thun túy “dn dp ngăn np” hay điu tiết tâm bng cách phân loi ra và xác đnh nhng si dt ri rm ca tiến trình tâm. Chc năng xác đnh đó, ging như bt kỳ mt hot đng tâm thc nào khác, được kết ni vi s hình thành ngôn t. Nói cách khác, “xác đnh” được tiến hành bng cách “gi tên” rõ ràng nhng tiến trình tâm tương ng.

Con người thi tin s thường tin rng ngôn t có mt sc mnh huyn bí. “Nhng gì có th gi tên s mt đi quyn lc huyn bí đi vi con người, ni khiếp s trước cái mà người ta không biết. Biết tên ca mt đng lc, mt chúng sanh hay mt vt th (đi vi người tin s) là tương đương vi vic làm ch nó”[3][5]. Nim tin nguyên thy v sc mnh huyn bí ca tên gi đó cũng xut hin trong nhiu huyn thoi và chuyn c tích, trong đó sc mnh ca con quái vt b b gãy ch bng cách can đm đi din vi nó và gi tên nó ra.

Trong “huyn thut tên gi” ca người tin s có mt phn s tht, và trong phương pháp ghi nhn thun túy, chúng ta thy sc mnh ca vic gi tên y được khng đnh. Nhng “con quái vt bóng ti”  trong tâm – các xung đng cm xúc và nhng suy nghĩ mơ h - không th chu ni câu hi đơn gin, song rõ ràng, v “cái tên” ca chúng, còn nói chi đến hiu biết v cái tên y na. Vì vy, ch riêng điu đó thôi cũng thường là đ đ tước bt sc mnh ca chúng ri. Cái nhìn quan sát bình thn ca chánh nim phát hin nhng con quái vt t ch trn ca chúng. Thc hành vic gi tên cũng s đưa chúng ra ngoài ánh sáng ca hu thc.  đó, chúng s thy xu h và buc phi t thanh minh cho mình, mc dù trong giai đon ghi nhn thun túy, chúng còn chưa b tra hi k lưỡng, mà mi ch b đim mt và xác đnh danh tính mà thôi. Nếu b buc phi l mt t khi còn mi phôi thai, chúng s không th chu ni s soi xét và s teo nh đi. Như vy, chiến thng đu tiên đã đt được, ngay  giai đon thc hành đu tiên. 

S xut hin ca các suy nghĩ xu xa, h lit, không mong mun  trong tâm, ngay c thoáng qua và ch lưu hành na vi, cũng có tác đng không my d chu đến lòng t trng ca chúng ta. Vì vy, nhng suy nghĩ như thế thường b chúng ta gt sang mt bên, không đ tâm đến hoc không phn đi. Thông thường chúng cũng ngy trang bng mt nhãn hiu đáng kính và d chu hơn đ che du bn cht tht. Nhng suy nghĩ b gt b theo mt trong hai cách như trên s tích lũy thêm sc mnh cho các xu hướng tâm h lit trong tim thc. Hơn na, quy trình này s làm suy yếu ý chí kháng c s ni lên và thng tr ca phin não, và cng c thêm xu hướng trn tránh vn đ. Song bng cách đơn gin thc hành phương pháp ghi nhn hoc gi tên mt cách rõ ràng và trung thc bt c suy nghĩ không mong mun nào trong tâm, hai chc năng gây hi là làm ngơ và ngy trang s b loi b, do đó, có th tránh được nhng hu qu có hi đi vi cu trúc tim thc và s chch hướng n lc ca tâm. 

Khi nhng suy nghĩ xu xa, h lit hay nhng khuyết đim cá nhân được gi đúng tên ra, tâm chúng ta s tăng trưởng sc kháng c và thm chí là s ghê tm đi vi chúng. Tri qua thi gian, chúng ta s kim soát và cui cùng là loi b được chúng. Ngay c khi không hoàn toàn kim soát được các xu hướng tâm h lit, thì cũng đ li tác đng do s kháng c lp đi lp li, do đó làm suy yếu chúng mi khi chúng xut hin tr li. Có th nói rng nhng suy nghĩ bt thin s không còn là th lĩnh mc sc tung hoành trên sân chơi na, s thiếu t tin ca chúng s giúp chúng ta d đi phó vi chúng hơn.  đây, chính sc mnh ca tàm, quý (xu h và ghê s nhng điu bt thin) s tp hp li như mt đng minh, được tăng cường sc mnh nh nhng k thut tâm lý đơn gin nhưng rt tinh tế này.

Phương pháp gi tên và ghi nhn tt nhiên cũng được áp dng đi vi nhng suy nghĩ và đng lc cao thượng, khích l và tăng cường sc mnh cho chúng. Không có s chú ý mt cách có ch đích, nhng xu hướng tâm cao thượng này thường trôi qua mt cách m nht, không ai đ ý đến và ri s cn ci, khô héo. Nhưng khi chánh nim tnh giác được áp dng, nó s kích thích s tăng trưởng ca các tâm cao thượng y.

Mt trong nhng đc tính hu ích nht ca chánh nim, đc bit là ghi nhn thun túy, là giúp chúng ta tn dng được tt c mi s kin xy ra bên ngoài và  bên trong ni tâm đ trưởng thành. Ngay c cái không tt cũng có th tr thành s khi đu cho cái tt khi, bng vic gi tên và ghi nhn, nó tr thành đi tượng đ quán sát mt cách tách bit. 

Nhiu ln trong kinh T Nim X, chc năng gi tên hay “ghi nhn thun túy” đã được nêu lên mt cách trc tiếp. Không ít hơn bn ln như vy trong c bài kinh:
1.   Khi cm nhn mt cm th lc, v y biết “tôi đang cm nhn mt cm th lc”…
2.   Khi tâm có dc, v y biết: “tâm đang có dc”…
3.   Khi trin cái tham dc đang có mt trong tâm, v y biết “trin cái tham dc đang có mt trong tôi”…
4.   Khi nim giác chi có mt, v y biết “Nim giác chi đang có mt trong tôi”…

Đ kết lun,  phn này chúng ta đã làm rõ: công tác thu dn ngăn np tâm và gi tên các tiến trình tâm là s chun b không th thiếu đ hiu bn cht tht ca chúng mt cách hoàn toàn – đó chính là nhim v ca tu quán (vipassanā). Nhng chc năng này, được thc hin bi ghi nhn thun túy, s giúp loi b mt o tưởng rng các tiến trình tâm là mt th thng nht. Chúng giúp chúng ta nhn biết được các đc tướng và s sanh dit tc thi ca chúng.




[1][3] Định kiến: là những nếp suy nghĩ cứng nhắc bị khuôn nếp bởi những chấp thủ đúng-sai, yêu-ghét…hình thành qua quá trình cảm nhận và tư duy, hấp thu từ trước tới nay, ăn sâu trong vô thức. Đa phần những định kiến ấy đều phiến diện và là những phiên bản bị bóp méo của sự thật. Người mang những định kiến như vậy thường có xu hướng đánh giá một sự việc hoặc con người nào đó không đúng theo sự thật khách quan, mà đã qua một màng lọc vô thức. Định kiến, giống như một lăng kính có tác dụng phóng to, thu nhỏ hoặc bóp méo hình ảnh thực, cũng bóp méo sự thực khi tiếp nhận và xử lý thông tin; và trong quá trình ấy lại làm dày thêm chính nó. Định kiến có hai loại cứng đầu và ăn sâu nhất, đó là định kiến tri thức-chấp thủ những tiêu chuẩn đúng-sai, hay-dở  từ những hiểu biết phiến diện và lêch lạc của chủ quan (ví dụ: khi chấp chặt một tư tưởng nào đó là đúng thì dễ nhìn thấy cái sai, khó nhìn thấy cái đúng trong những hệ tư tưởng khác, và chỉ mang cái đúng của mình ra làm tiêu chuẩn để đánh giá mọi thứ); thứ hai là định kiến cảm xúc: các tiêu chuẩn đúng sai, tốt xấu đó bị một chấp thủ cảm xúc nào đó chi phối và tô màu (ví dụ: khi đã ghét một ai đó thì nhìn cái gì của người ta cũng thấy xấu, thấy ghét). Định kiến ngăn cản con người nhận chân sự thật, làm dày thêm chấp thủ, và là một trong những trở ngại tự thân lớn nhất một người tu tập tâm phải đối diện và hóa giải. Chánh niệm-tỉnh giác là công cụ chính yếu và có thể nói là duy nhất để giúp các thiền sinh làm được điều đó-hóa giải và vượt qua các định kiến, chấp thủ sâu dày trong vô thức để chứng ngộ chân lý-ND.
[2][4] Chú gii Tương Ưng b kinh SN334
[3][5] Anagarika Govinda, Quan kiến tâm lý của Giáo lý Phật giáo nguyên thủy (Rider&Co, 1961).