Wednesday, January 20, 2016

Nhn thc trc tiếp

       Tôi ước gì có th tách mình ra khi thói quen đ có th nhìn mt cách mi m, nghe mi m và cm nhn mi m. Thói quen làm hng s an nhiên, t ti ca chúng ta.
                                G.C.Linchtenberg (1742-1799)

Trong phn trên, chúng ta đã nói v thói quen t đng ca các hành đng bt thin. Chúng ta đã thy cách gi yên (tnh ch) đ duy trì s chú ý thun túy và liên tc có th ngăn chn hoc gim bt nhng phn ng thô tháo, vi vàng, do đó cho phép chúng ta đi din vi bt c hoàn cnh nào vi mt cái tâm mi m, vi s nhn thc trc tiếp không b cn tr bi đnh kiến gây nên t nhng phn ng t đng đó.

Vi nhn thc trc tiếp[1][7] chúng ta có cái nhìn trc tiếp v thc ti, không qua nhng lăng kính đy màu sc và bóp méo s tht, không b chi phi bi các đnh kiến cm xúc và thói quen, hay s thiên v, ưa thích tri thc. Nghĩa là: đi din trc tiếp vi các s kin thun túy ca thc tế, nhìn chúng mt cách sng đng và mi m như là ln đu nhìn thy.

Sc mnh ca thói quen

Nhng phn ng t đng thường ngăn đường cn li hiu biết trc tiếp này không ch đến t các xung đng cm xúc ca chúng ta. Rt thường xuyên chúng là sn phm ca thói quen. Dưới dng đó, chúng ngày càng nm chc và chi phi chúng ta – có th vn hành đ đem li li ích hoc làm hi chúng ta. nh hưởng tt ca thói quen được thy trong “sc mnh ca s thc hành liên tc, lập đi lập li”. Sc mnh này bo v nhng thành qu và k năng ca chúng ta – dù là công vic tay chân hay đu óc, dù là công vic thế gian hay công vic tâm linh – khi s mt mát hay quên lãng, và chuyn đi chúng t nhng tài sn bình thường, ngn ngi và không hoàn ho thành th tài sn an toàn, có cht lượng. nh hưởng có hi ca các phn ng t đng theo thói quen được th hin trong cái chúng ta gi là “sc mnh ca thói quen”: nhng nh hưởng gây suy yếu, trì tr và hn chế, là sn phm ca nhng loi hành vi, thái đ mang tính cưỡng ép.  đây chúng ta s ch chú ý đến nhng mt tiêu cc ca thói quen có vai trò gây chướng ngi và che khut s nhn thc trc tiếp.

Như đã nói  trên, các phn ng theo thói quen nói chung có nh hưởng lên thái đ hành x ca chúng ta mnh m hơn các phn ng ngu nhiên, tc thi. Các xung đng cm xúc trong ta có th biến mt cũng bt ng như khi chúng xut hin. Mc dù hu qu ca nó có th rt nghiêm trng và kéo dài xa đến tương lai, song nh hưởng ca nó vn không th kéo dài và sâu đm bng nh hưởng ca các thói quen. Thói quen bao ph mng lưới rng ln và đan dy ca nó lên cuc đi và suy nghĩ ca chúng ta, c kéo thêm vào trong nó ngày càng nhiu hơn na. Các xung đng cm xúc, tình cm ca chúng ta cũng thế, b túm gn trong chiếc lưới y và t nhng cm xúc bc phát thoáng qua được chuyn hóa thành nhng nét tính cách lâu dài. Mt cm xúc thoáng qua, mt s d duôi, buông th nào đó, mt ý thích bt cht ny sinh có th s tr thành thói quen nếu lập đi lập li nhiu ln, và chúng ta s rt khó nh bt gc r ca nó. Nó s tr thành mt s khao khát khó kim soát và cui cùng tr thành mt hành đng t đng mà chúng ta không bao gi tra vn na. S tha mãn lập đi lập li s biến mt ni khao khát thành thói quen, và thói quen không được kim soát s ln mnh lên thành s thúc ép, bt buc.  
Mt s vic thường xy ra là lúc đu chúng ta coi mt hành đng hay mt thái đ nào đó trong tâm là không quan trng đi vi cá nhân mình. Hành đng hay thái đ đó có th là bàng quan, th ơ và không gây hu qu v đo đc. Ban đu chúng ta s thy rt d t b nó, thm chí thay thế bng mt thái đ ngược li, bi vì không có cm xúc hay đnh kiến nào thúc đy chúng ta thiên v mt bên nào c. Nhưng do lập đi lập li nhiu ln, chúng ta dn dn coi nhng loi hành đng và suy nghĩ mình la chn đó là “thích thú, đáng mong mun, và đúng đn”, thm chí là “chính đáng” na; và do đó đng hóa mình vi nó, coi đó là tính cách ca mình. Hu qu là, chúng ta cm thy bt c s phá v nào đi vi thông l đó là không thích thú hay sai trái. Bt c s can thip nào t bên ngoài cũng khiến chúng ta tc gin, thm chí còn coi là mi đe da ti “nhng nguyên tc và li ích sng còn” ca mình na. Thc ra, nhng tâm hn hoang sơ, dù là “văn minh” hay không, lúc nào cũng nhìn nhng k l mt vi “phong tc l đi” như là k thù, và cm nhn s có mt thân thin ca h là đy thách thc và đe da.

Lúc đu, khi mt thói quen nht đnh không được coi là quá quan trng, s dính mc thành hình dn dn y không hướng ti bn thân ca hành đng nhiu bng s thích thú do thông l thường làm không b cn tr. Sc mnh ca s dính mc vào thông l mt phn đến t sc ỳ ca thân và tâm chúng ta – sc ý đó là mt đng lc rt mnh trong con người.  đây, chúng ta s xem xét mt nguyên nhân na khiến mình dính mc vào thông l. Do sc mnh ca thói quen, mt đi tượng - dù là đi tượng vt cht, mt hành đng hay cách suy nghĩ – s được đu tư thêm bng s gia tăng cường đ cm xúc, đến mc s dính mc vào nhng th không quan trng và tm thường, vô nghĩa li có th tr nên mnh m, dai dng như th đó là nhng nhu cu thiết yếu nht. Vì vy, thiếu kim soát tâm có th biến nhng thói quen nh nht thành nhng ông ch đy quyn lc ca cuc đi chúng ta. Nó ban cho chúng quyn lc nguy him đ hn chế và làm cng nhc tính cách, hn chế t do tâm linh và tri thc ca chúng ta. Do phc tùng thói quen, chúng ta t mua dây buc mình, và làm cho mình d b tn thương trước nhng dính mc mi, sân hn, đnh kiến và s thích mi; nghĩa là nhng đau kh mi. Mi nguy him đi vi s phát trin tâm linh do nh hưởng thng tr ca thói quen ngày nay còn nghiêm trng hơn rt nhiu; bi vì s phát trin các thói quen đc bit d nhn thy trong thi đi ngày nay khi s chuyên môn hóa và chun hóa đã vươn ti rt nhiu lĩnh vc tư tưởng và đi sng. 

Do đó, khi xem xét nhng li kinh T Nim X, phn hình thành nên trói buc (kiết s), chúng ta phi nghiên cu k vai trò quan trng ca các thói quen:

và nhng trói buc nào khi lên do duyên c hai (các giác quan và đi tượng ca chúng), v y biết rõ như vy. Cách thc các trói buc chưa sanh được sanh khi như thế nào, v y biết rõ như vy.

Theo ngôn ng Pht hc, loi chướng ngi hôn trm – thy miên (thīna-middha-nīvarana: dã dượi, bun ng) được tiếp sc bi thói quen, và làm cho s nhu nhuyn, nh nhàng ca thân và tâm (kāya, citta-lahutā: khinh thân, khinh tâm) b suy yếu.

Xu hướng m rng phm vi nh hưởng ca thói quen này ăn sâu bén r  ngay trong tâm chúng ta. Nó bt ngun không ch t sc mnh (th đng) ca s trì tr (sc ỳ) đã nói  trên, mà trong nhiu trường hp còn t ý chí áp đt và chinh phc ca chúng ta. Mt s loi tâm hot đng tích cc, cường đ mnh, có xu hướng t lập li chính nó. Mi tâm c vt ln đ chiếm ưu thế, đ tr thành trung tâm mà các trng thái thân và tâm khác yếu hơn phi vn đng xung quanh, t thay đi đ thích ng vi và phc v cho trung tâm y. Xu hướng này không phi là không bao gi b thách thc, song nó vn chiếm ưu thế, và ngay c các loi tâm ph thuc và  ngoi vi cũng có cùng đng lc vươn lên như thế. Điu này rt ging vi xu hướng t khng đnh mình và đc đoán, áp đt lên người khác ca nhng con người ngã mn, khi h tiếp xúc, giao tiếp vi xã hi. Trong y hc, chúng ta có th thy nó ging như căn bnh ung thư càng ngày càng lan rng; hay xu hướng lập li thường gp trong nhng trường hp đt biến kỳ l - mt mi nguy him vô cùng trong thi đi nguyên t ca chúng ta. 

       Bi vì ý chí thng tr hin hu trong nhiu loi tâm, mt suy nghĩ bt cht thoáng qua cũng có th ln mnh thành mt nét tính cách thường trc. Nếu vn không bng lòng vi v trí hin ti, nó có th hoàn toàn phá v và thoát ra khi các đng lc sng hin ti, cui cùng cho đến lúc tái sanh, nó s tr thành chính trung tâm ca mt nhân cách mi.  trong mi chúng ta có vô s nhân cho nhng kiếp sng mi như vy, cho vô s “chúng sinh” s ra đi, tt c chúng sinh y chúng ta nguyn s gii thoát khi luân hi, như lc t ca Thin tông Trung Hoa đã tng nói[2][8].

Nhng thói quen có hi ca thân và tâm có th phát trin rt mnh, không ch khi chúng ta c ý nuôi dưỡng nó, mà ngay c khi không nhn din ra chúng hoc buông tay đ mc chúng t tung t tác. Rt nhiu th có gc r sâu chc trong tâm hin nay đu bt ngun t nhng ht ging nh bé mà chúng ta đã gieo trong quá kh xa xôi. S phát trin các pháp bt thin hay nhng thói quen có hi có th được kim chế mt cách hiu qu bng cách dn dn phát trin mt thói quen khác: thói quen chú ý đến chúng mt cách chánh nim. Nếu gi đây, khi làm nhng vic quen làm mt cách máy móc, chúng ta làm mt cách cn thn và có ý thc, và trước khi làm hãy dng li mt chút đ ghi nhn thun túy và suy xét – nó s cho chúng ta cơ hi đ xem xét k thói quen ca mình và hiu rõ mc đích vic làm, biết rõ nó có thích hp hay không (sātthaka sappāya-sampajañña: mc đích tnh giác và thích nghi tnh giác). Nó cho phép chúng ta đánh giá s vic mt cách mi m, thy mt cách trc tiếp, không b mê m do hành đng theo thói quen vi suy nghĩ: “vic này là đúng đn bi vì trước kia mình đã tng làm như thế”. Ngay c khi thói quen có hi chưa th nhanh chóng b xóa b, khong thi gian tm dng đ suy xét cũng s ngăn bt nhng hành đng t đng và thiếu suy nghĩ. Tâm chúng ta s thường xuyên suy xét k và kháng c li, làm cho thói quen đó ngày mt suy yếu dn đi, và khiến chúng ta d dàng thay đi hay loi b nó hơn. 

Cn phi nói rõ là thói quen, vn được gi là “vú nuôi ca con người”, không th và không nên biến mt khi cuc sng ca chúng ta. Ch cn nh xem, nht là đi vi nhng con người thành ph vi cuc sng đông đúc và phc tp, tht nh nhàng biết bao khi chúng ta có th x lý rt nhiu công vic khác nhau mt cách tương đi máy móc mà ch cn chú ý “mt na”. Thói quen làm đơn gin hóa cuc sng ca chúng ta. Nếu tt c mi công vic nh nht, bun t đu phi làm vi s c gng đy ch ý và chú ý sát sao thì tht là căng thng. Thc ra, rt nhiu công vic tay chân, nhng công đon k thut trong ngh thut, và ngay c mt s quy trình công vic đu óc, nếu tiến hành mt cách khéo léo theo thói quen thường l s mang li kết qu tt hơn và đu đn hơn. Tuy nhiên ngay c s đu đn ca các công vic thói quen y cũng s đt đến đim dng. Nếu không được tiếp sc bi mt hng thú mi, nó s bc l triu chng mi mt và bt đu suy thoái.

Tt nhiên, không phi tt c mi thói quen nh nht đu phi b xóa b, bi vì nhiu thói quen là vô hi, thm chí còn có ích. Song chúng ta phi thường xuyên t hi xem liu mình vn còn kim soát được chúng hay không; liu mình có th t b hay thay đi chúng tùy ý được hay không. Chúng ta có th tr li câu hi này bng hai cách: th nht, chú ý đến các hành đng theo thói quen ca mình mt cách chánh nim trong mt thi gian; th hai, tm thi t b thói quen y nếu điu đó không làm tn hi đến chính mình hay người khác. Nếu chúng ta soi chiếu chúng bng s nhn thc trc tiếp, nhìn hay thc hin các hành đng y như th là ln đu tiên, thì nhng hành đng thường l và thói quen nh nht y s tr nên rt thú v. Điu này cũng phát huy tác dng đi vi ngh nghip chuyên môn, môi trường làm vic và các mi quan h ca chúng ta trong trường hp b bế tc bi thói quen. Mi quan h v chng, quan h bn bè và đng nghip nh vy cũng được ci thin rt nhiu. Mt cái nhìn trc tiếp và mi m s cho chúng ta thy rng mình có th quan h vi mi người hoc làm mi vic theo mt cách khác, hiu qu hơn cách mình vn thường làm theo thói quen trước kia.

Kh năng có th t b nhng thói quen nh nht đó rt có giá tr trong cuc chiến chng li nhng khuynh hướng nguy him trong tâm chúng ta. Nó cũng là mt s tr giúp ln mi khi chúng ta phi đi din vi nhng thay đi nghiêm trng trong cuc đi, khi hoàn cnh tước b mt nhng thói quen thiết yếu ca chúng ta. Làm mm hóa các li mòn suy nghĩ và thái đ cng nhc s làm tươi mi li năng lượng sng, sc mnh tinh thn và kh năng tưởng tượng. Nhưng điu quan trng hơn c là, trên mnh đt tơi mm y, chúng ta s gieo được nhng ht ging phát trin tâm linh đy sc sng.



[1][7] Sự nhận thức không thông qua hoặc không bị bóp méo bởi các thành kiến, định kiến hay trung gian ý niệm, ngôn từ chế định.
[2][8] Điều đáng buồn là một số người theo trường phái Phật giáo Đại thừa đã hiểu lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh của Bồ Tát một cách rất nông cạn và sai lầm. Họ muốn cứu độ tất cả chúng sinh thành Phật rồi họ mới thành Phật. Trong khi Lục Tổ Huệ Năng nói rất rõ: lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh khỏi sanh tử luân hồi chính là đoạn trừ những nhân tạo ra những kiếp sống mới trong tâm của chính mình-chú thích của thiền sư.