Nhận thức trực tiếp
Tôi
ước gì có thể tách mình ra khỏi thói
quen để có thể nhìn một cách
mới mẻ, nghe
mới mẻ và cảm nhận mới mẻ. Thói
quen làm hỏng sự an nhiên, tự tại của chúng
ta.
G.C.Linchtenberg (1742-1799)
Trong phần trên, chúng
ta đã nói về thói quen tự động của các hành động bất thiện. Chúng ta
đã thấy cách giữ yên (tịnh chỉ) để duy trì sự chú ý thuần túy
và liên tục có thể ngăn chặn hoặc giảm bớt những phản ứng thô tháo,
vội vàng, do đó cho phép chúng ta đối diện với bất cứ hoàn cảnh nào với một cái tâm mới mẻ, với sự nhận thức trực tiếp không bị cản trở bởi định kiến gây nên từ những phản ứng tự động đó.
Với nhận thức trực tiếp[1][7] chúng ta có cái nhìn trực tiếp về thực tại,
không qua những lăng kính đầy màu sắc và
bóp méo sự thật, không bị chi phối bởi các định kiến cảm xúc và thói
quen, hay sự thiên vị, ưa thích tri thức. Nghĩa là:
đối diện trực tiếp với các sự kiện thuần túy của thực tế, nhìn
chúng một cách sống động và mới mẻ như là lần đầu nhìn thấy.
Sức mạnh của thói quen
Những phản ứng tự động thường ngăn đường cản lối hiểu biết trực tiếp này không
chỉ đến từ các xung động cảm xúc của chúng ta. Rất thường xuyên
chúng là sản phẩm của thói quen. Dưới dạng đó, chúng ngày càng nắm chắc và chi phối chúng ta –
có thể vận hành để đem lại lợi ích hoặc làm hại chúng ta. Ảnh hưởng tốt của thói quen được thấy trong “sức mạnh của sự thực hành liên tục, lập đi lập
lại”. Sức mạnh này bảo vệ những thành quả và kỹ năng của chúng ta –
dù là công việc tay chân hay đầu óc, dù là
công việc thế gian hay công việc tâm linh –
khỏi sự mất mát hay quên lãng, và chuyển đổi chúng từ những tài sản bình thường, ngắn ngủi và không
hoàn hảo thành thứ tài sản an toàn, có
chất lượng. Ảnh hưởng có hại của các phản ứng tự động theo thói quen được thể hiện trong cái chúng ta gọi là “sức mạnh của thói quen”:
những ảnh hưởng gây suy yếu, trì trệ và hạn chế, là sản phẩm của những loại hành
vi, thái độ mang tính cưỡng ép. Ở đây chúng ta sẽ chỉ chú ý đến những mặt tiêu
cực của thói
quen có vai trò gây chướng ngại và che khuất sự nhận thức trực tiếp.
Như đã nói ở trên, các phản ứng theo
thói quen nói chung có ảnh hưởng lên thái độ hành xử của chúng ta mạnh mẽ hơn các phản ứng ngẫu
nhiên, tức thời. Các
xung động cảm xúc
trong ta có thể biến mất cũng bất ngờ như khi chúng xuất hiện. Mặc dù hậu quả của nó có thể rất nghiêm trọng và kéo dài xa đến tương lai, song ảnh hưởng của nó vẫn không thể kéo dài và sâu đậm bằng ảnh hưởng của các thói
quen. Thói quen bao phủ mạng lưới rộng lớn và đan dầy của nó lên cuộc đời và suy nghĩ
của chúng ta, cố kéo thêm vào trong nó ngày càng nhiều hơn nữa. Các xung động cảm xúc, tình cảm của chúng
ta cũng thế, bị túm gọn trong
chiếc lưới ấy và từ những cảm xúc bộc phát thoáng qua được chuyển hóa thành
những nét tính cách lâu dài. Một cảm xúc thoáng qua, một sự dễ duôi, buông thả nào đó, một ý
thích bất chợt nảy sinh
có thể sẽ trở thành thói quen nếu lập
đi lập lại nhiều lần, và chúng
ta sẽ rất khó nhổ bật gốc rễ của nó. Nó sẽ trở thành một sự khao khát khó kiểm soát và cuối cùng trở thành một hành động tự động mà chúng ta không bao giờ tra vấn nữa. Sự thỏa mãn lập đi lập lại sẽ biến một nỗi khao khát
thành thói quen, và thói quen không được kiểm soát sẽ lớn mạnh lên thành
sự thúc ép, bắt buộc.
Một sự việc thường xảy ra là lúc đầu chúng ta
coi một hành động hay một thái độ nào đó trong tâm là không quan trọng đối với cá nhân
mình. Hành động hay thái độ đó có thể là bàng quan, thờ ơ và không gây hậu quả về đạo đức. Ban đầu chúng ta sẽ thấy rất dễ từ bỏ nó, thậm chí thay thế bằng một thái độ ngược lại, bởi vì không có
cảm xúc hay định kiến nào
thúc đẩy chúng ta thiên vị một bên nào cả. Nhưng do lập đi lập
lại nhiều lần, chúng ta dần dần coi những loại hành động và suy
nghĩ mình lựa chọn đó là
“thích thú, đáng mong muốn, và đúng đắn”, thậm chí là
“chính đáng” nữa; và do đó đồng hóa mình với nó,
coi đó là tính cách của mình. Hậu quả là, chúng ta cảm thấy bất cứ sự phá vỡ nào đối với thông
lệ đó là không thích thú hay sai trái. Bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài cũng khiến chúng
ta tức giận, thậm chí
còn coi là mối đe dọa tới “những nguyên tắc và lợi ích sống còn” của mình
nữa. Thực ra,
những tâm hồn hoang
sơ, dù là “văn minh” hay không, lúc
nào cũng nhìn những kẻ lạ mặt với
“phong tục lạ đời” như là kẻ thù, và cảm nhận sự có mặt thân thiện của họ là đầy thách
thức và đe dọa.
Lúc đầu, khi một thói quen
nhất định không được coi là quá
quan trọng, sự dính mắc thành hình
dần dần ấy không
hướng tới bản thân của hành động nhiều bằng sự thích thú do thông lệ thường làm không bị cản trở. Sức mạnh của sự dính mắc vào
thông lệ một phần đến từ sức ỳ của thân và tâm
chúng ta – sức ý đó là một động lực rất mạnh trong con
người. Ở đây, chúng ta sẽ xem xét một nguyên nhân
nữa khiến mình dính mắc vào
thông lệ. Do sức mạnh của thói
quen, một đối tượng - dù là đối tượng vật chất, một hành động hay cách suy nghĩ – sẽ được đầu tư thêm bằng sự gia tăng cường độ cảm xúc, đến mức sự dính mắc vào những thứ không quan trọng và tầm thường, vô nghĩa
lại có thể trở nên mạnh mẽ, dai dẳng như thể đó là những nhu
cầu thiết yếu nhất. Vì vậy, thiếu kiểm soát
tâm có thể biến những thói
quen nhỏ nhất thành những ông
chủ đầy quyền lực của cuộc đời chúng
ta. Nó ban cho chúng quyền lực nguy hiểm để hạn chế và làm cứng nhắc tính cách,
hạn chế tự do tâm linh và tri thức của chúng
ta. Do phục tùng thói quen, chúng ta tự mua dây buộc mình,
và làm cho mình dễ bị tổn thương trước những dính mắc mới, sân hận, định kiến và sở thích mới; nghĩa là
những đau khổ mới. Mối nguy hiểm đối với sự phát triển tâm linh do
ảnh hưởng thống trị của thói quen ngày nay còn nghiêm trọng hơn rất nhiều; bởi vì sự phát triển các
thói quen đặc biệt dễ nhận thấy trong thời đại ngày nay khi
sự chuyên môn hóa và chuẩn hóa đã vươn tới rất nhiều lĩnh vực tư tưởng và đời sống.
Do đó, khi xem xét những lời kinh
Tứ Niệm Xứ, phần hình
thành nên trói buộc (kiết sử),
chúng ta phải nghiên cứu kỹ vai trò quan trọng của các
thói quen:
…và những trói buộc nào khởi lên do duyên cả hai (các giác quan và đối tượng của chúng), vị ấy biết rõ như vậy. Cách thức các trói buộc chưa sanh được sanh khởi như thế nào, vị ấy biết rõ như vậy.
Theo ngôn ngữ Phật học, loại chướng ngại hôn trầm – thụy miên (thīna-middha-nīvarana: dã dượi, buồn ngủ) được tiếp sức bởi thói quen,
và làm cho sự nhu nhuyễn, nhẹ nhàng của thân và tâm
(kāya, citta-lahutā: khinh thân, khinh tâm) bị suy yếu.
Xu hướng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của thói quen
này ăn sâu bén rễ ở ngay trong tâm chúng ta. Nó bắt nguồn không chỉ từ sức mạnh (thụ động) của sự trì trệ (sức ỳ) đã nói ở trên, mà trong nhiều trường hợp còn từ ý chí áp đặt và chinh phục của chúng
ta. Một số loại tâm hoạt động tích
cực, cường độ mạnh, có xu hướng tự lập lại chính nó. Mỗi tâm cố vật lộn để chiếm ưu thế, để trở thành trung tâm mà các trạng thái thân
và tâm khác yếu hơn phải vận động xung
quanh, tự thay đổi để thích ứng với và phục vụ cho trung tâm ấy. Xu hướng này không
phải là không bao giờ bị thách thức, song nó vẫn chiếm ưu thế, và ngay cả các loại tâm phụ thuộc và ở ngoại vi cũng có cùng động lực vươn lên như thế. Điều này rất giống với xu hướng tự khẳng định mình và độc đoán,
áp đặt lên người khác của những con người ngã mạn, khi
họ tiếp xúc, giao tiếp với xã hội.
Trong y học, chúng ta có thể thấy nó giống như căn bệnh ung thư càng ngày càng lan rộng; hay xu hướng lập lại thường gặp trong những trường hợp đột biến kỳ lạ - một mối nguy hiểm vô cùng
trong thời đại nguyên tử của chúng ta.
Bởi vì ý
chí thống trị hiện hữu trong
nhiều loại tâm,
một suy nghĩ bất chợt
thoáng qua cũng có thể lớn mạnh
thành một nét tính cách thường trực. Nếu vẫn không bằng lòng với vị trí hiện tại, nó
có thể hoàn toàn phá vỡ và thoát ra khỏi các động lực sống hiện tại, cuối cùng cho đến lúc tái
sanh, nó sẽ trở thành chính trung tâm của một nhân cách mới. Ở trong mỗi chúng
ta có vô số nhân cho những kiếp sống mới như vậy, cho vô số “chúng sinh” sẽ ra đời, tất cả chúng sinh ấy chúng
ta nguyện sẽ giải thoát khỏi luân hồi, như lục tổ của Thiền tông Trung
Hoa đã từng nói[2][8].
Những thói
quen có hại của thân
và tâm có thể phát triển rất mạnh,
không chỉ khi chúng ta cố ý nuôi dưỡng nó, mà
ngay cả khi không nhận diện ra
chúng hoặc buông tay để mặc chúng tự tung tự tác. Rất nhiều thứ có gốc rễ sâu chắc trong tâm
hiện nay đều bắt nguồn từ những hạt giống nhỏ bé mà chúng ta đã gieo trong quá khứ xa xôi. Sự phát triển các
pháp bất thiện hay
những thói quen có hại có thể được kiềm chế một cách hiệu quả bằng cách dần dần phát triển một thói quen
khác: thói quen chú ý đến chúng một cách
chánh niệm. Nếu giờ đây, khi làm những việc quen
làm một cách máy móc, chúng ta làm một cách
cẩn thận và có
ý thức, và trước khi làm hãy
dừng lại một chút
để ghi nhận thuần túy và suy
xét – nó sẽ cho chúng ta cơ hội để xem xét kỹ thói quen của mình
và hiểu rõ mục đích
việc làm, biết rõ nó
có thích hợp hay không (sātthaka và
sappāya-sampajañña: mục đích tỉnh giác và
thích nghi tỉnh giác). Nó cho phép chúng ta
đánh giá sự việc một cách mới mẻ, thấy một cách trực tiếp, không bị mê mờ do hành động theo thói
quen với suy nghĩ: “việc này là đúng
đắn bởi vì trước kia mình đã
từng làm như thế”. Ngay cả khi thói quen có hại chưa thể nhanh chóng bị xóa bỏ, khoảng thời gian
tạm dừng để suy xét cũng sẽ ngăn bớt những hành động tự động và thiếu suy
nghĩ. Tâm chúng ta sẽ thường xuyên suy xét kỹ và kháng cự lại, làm cho thói quen đó ngày một suy yếu dần đi, và khiến chúng ta dễ dàng thay đổi hay loại bỏ nó hơn.
Cần phải nói
rõ là thói quen, vốn được gọi là “vú nuôi
của con người”, không thể và không nên biến mất khỏi cuộc sống của chúng ta.
Chỉ cần nhớ xem, nhất là đối với những con người thành phố với cuộc sống đông đúc
và phức tạp, thật nhẹ nhàng biết bao
khi chúng ta có thể xử lý rất nhiều công
việc khác nhau một cách
tương đối máy móc mà
chỉ cần chú ý “một nửa”.
Thói quen làm đơn giản hóa cuộc sống của chúng ta. Nếu tất cả mọi công việc nhỏ nhặt, buồn tẻ đều phải làm với sự cố gắng đầy chủ ý và chú ý sát sao thì thật là
căng thẳng. Thực ra, rất nhiều công
việc tay chân, những công
đoạn kỹ thuật trong nghệ thuật, và ngay cả một số quy trình công việc đầu óc, nếu tiến hành
một cách khéo léo theo thói quen thường lệ sẽ mang lại kết quả tốt hơn và đều đặn hơn. Tuy nhiên
ngay cả sự đều đặn của các công việc thói quen ấy cũng sẽ đạt đến điểm dừng. Nếu không được tiếp sức bởi một hứng thú mới, nó sẽ bộc lộ triệu chứng mỏi mệt và bắt đầu suy thoái.
Tất
nhiên, không phải tất cả mọi thói quen nhỏ nhặt đều phải bị xóa bỏ, bởi vì
nhiều thói quen là vô hại, thậm chí
còn có ích. Song chúng ta phải thường xuyên tự hỏi xem liệu mình vẫn còn
kiểm soát được chúng hay
không; liệu mình có thể từ bỏ hay thay đổi chúng tùy ý
được hay không. Chúng ta có thể trả lời câu hỏi này bằng hai
cách: thứ nhất, chú ý đến các hành động theo thói
quen của mình một cách chánh niệm trong
một thời gian;
thứ hai, tạm thời từ bỏ thói quen ấy nếu điều đó không
làm tổn hại đến chính mình
hay người khác. Nếu chúng ta
soi chiếu chúng
bằng sự nhận thức trực tiếp, nhìn
hay thực hiện các
hành động ấy như thể là lần đầu tiên, thì
những hành động thường lệ và thói quen nhỏ nhặt ấy sẽ trở nên rất thú vị. Điều này cũng
phát huy tác dụng đối với nghề nghiệp chuyên môn,
môi trường làm việc và
các mối quan hệ của chúng ta trong trường hợp bị bế tắc bởi thói
quen. Mối quan hệ vợ chồng, quan hệ bạn bè và đồng nghiệp nhờ vậy cũng được cải thiện rất nhiều. Một cái nhìn trực tiếp và mới mẻ sẽ cho chúng ta thấy rằng mình
có thể quan hệ với mọi người hoặc làm mọi việc theo một cách khác,
hiệu quả hơn cách mình vẫn thường làm theo
thói quen trước kia.
Khả năng có thể từ bỏ những thói quen nhỏ nhặt đó rất có giá trị trong cuộc chiến chống lại những khuynh hướng nguy hiểm trong tâm
chúng ta. Nó cũng là một sự trợ giúp lớn mỗi khi chúng
ta phải đối diện với những thay đổi nghiêm trọng trong cuộc đời, khi hoàn cảnh tước bỏ mất những thói quen
thiết yếu của chúng ta. Làm mềm hóa
các lối mòn suy nghĩ và thái độ cứng nhắc sẽ làm tươi mới lại năng
lượng sống, sức mạnh tinh thần và khả năng tưởng tượng. Nhưng điều quan trọng hơn cả là, trên mảnh đất tơi mềm ấy, chúng ta sẽ gieo được những hạt giống phát triển tâm linh đầy sức sống.
[1][7] Sự nhận thức không thông
qua hoặc không bị bóp méo bởi các thành kiến, định kiến hay trung gian ý niệm,
ngôn từ chế định.
[2][8] Điều đáng buồn là một số
người theo trường phái Phật giáo Đại thừa đã hiểu lời nguyện cứu độ tất cả
chúng sinh của Bồ Tát một cách rất nông cạn và sai lầm. Họ muốn cứu độ tất cả
chúng sinh thành Phật rồi họ mới thành Phật. Trong khi Lục Tổ Huệ Năng nói rất
rõ: lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh khỏi sanh tử luân hồi chính là đoạn trừ
những nhân tạo ra những kiếp sống mới trong tâm của chính mình-chú thích của
thiền sư.