Ba cách tăng cường năng lực tâm linh
nêu trên rõ ràng có tầm quan trọng hàng
đầu cho sự phát triển tuệ giác. Khi tâm đã được tăng cường sức mạnh, phạm vi của đề mục và cấu trúc
quan hệ nhân duyên đã được làm rõ, sân
chơi đã được dọn sẵn để “nhìn mọi sự việc như chúng đang là”. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động trực tiếp, tiến trình
theo ba cách này còn có tác động gián tiếp không
kém phần quan trọng và mạnh mẽ: nó tăng cường và mài sắc trí nhớ, trực giác và khả năng sắp xếp-tổ chức trong tiềm thức. Điều này lại nuôi dưỡng và thúc đẩy quá trình
tăng trưởng tuệ giải thoát (tăng thượng tuệ). Cũng giống như ví dụ cái hồ trong núi mà Đức Phật nói trong kinh: không những được làm đầy bởi nước suối chảy vào, mà còn được làm đầy bởi những mạch nước ngầm dưới đáy hồ. Tuệ giác được nuôi dưỡng “ngầm bên dưới” từ trong tiềm thức này có gốc rễ rất sâu. Những thành quả thiền tập do nó mang
lại không dễ dàng mất đi,
ngay cả đối với những con
người phàm phu chưa đắc đạo – những người có khả năng còn bị rơi trở lại.
1. Những sự nhận thức hoặc suy nghĩ là
đối tượng chú ý liên
tục sẽ có tác động mạnh mẽ hơn lên tâm và bộc lộ những đặc tính của chúng một cách rõ nét
hơn. Do đó, sau khi chìm xuống vô
thức, chúng sẽ chiếm giữ một vị trí đặc biệt ở đó. Điều này đúng đối với cả ba cách tăng cường sức mạnh của tâm khi nhận thức một đối tượng.
a. Trong một tiến trình
tâm, nếu sự chú ý trong giai đoạn cuối cũng mạnh như ở giai đoạn đầu, thì
khi tiến trình kết thúc
và tâm chìm lại vào vô thức, nó sẽ dễ dàng thuận theo sự kiểm soát của hữu thức hơn.
b. Nếu một ấn tượng giác quan
hay một ý tưởng được đánh dấu bởi nhiều đặc tính rõ
nét, thì sau khi khuất bóng khỏi quá trình nhận thức hiện tại, nó sẽ không dễ dàng mất đi
trong kho vô thức mờ tối hoặc bị lôi kéo theo các định kiến cảm xúc để tạo nên những liên tưởng sai lầm trong vô thức.
c. Tương tự, sự nhận thức đúng đắn các quan hệ nhân duyên của đối tượng sẽ bảo vệ không để nó tan lẫn với những chất liệu mơ hồ trong vô thức. Các suy
nghĩ và nhận thức với cường độ mạnh và rõ nét, sau khi chìm vào vô thức, vẫn rõ
nét hơn và dễ tiếp cận hơn những ấn tượng giác quan
mờ nhạt và “còi cọc”. Nó
sẽ dễ dàng được chuyển đổi thành hữu thức đầy đủ và sẽ có ảnh hưởng lớn hơn đối với tâm, từ sâu đằng sau
hậu trường. Nếu, thông qua
sự tiến bộ về chất lượng và phạm vi của chánh niệm, số lượng những ấn tượng giác quan
đủ độ chín như vậy được tăng lên, kết quả sẽ là sự thay đổi vi tế ở trong chính cấu trúc của vô thức.
2. Xét theo những gì
chúng ta đã trình bày ở trên, rõ ràng là những ấn tượng giác quan
mà chúng ta gọi là “đủ độ chín” hay “dễ tiếp cận và chuyển đổi” ấy sẽ được nhớ lại một cách dễ dàng và chính xác hơn. Dễ dàng bởi vì các ấn tượng giác quan ấy có cường độ mạnh, chính xác bởi vì những đặc tính
bộc lộ rõ nét bảo vệ chúng khỏi bị những suy tưởng và những hình ảnh liên tưởng bóp méo.
Ghi nhớ chúng trong hoàn cảnh và các mối quan hệ nhân duyên cụ thể sẽ phát huy tác dụng theo cả hai cách: làm tăng cường khả năng nhớ lại một cách chính
xác hơn và dễ dàng hơn. Do đó, chức năng chú ý,
ghi nhận của chánh
niệm (sati) sẽ giúp tăng cường chức năng thứ hai của nó là ghi
nhớ.
3. Ảnh hưởng của sự chú ý liên tục lên
tiềm thức và
trí nhớ sẽ làm sâu sắc và củng cố thêm khả năng trực giác của thiền sinh, đặc biệt là trí tuệ trực giác – điều chúng ta
quan tâm chính ở đây. Trực giác không phải là một món quà cho
không, biếu không. Cũng như các khả năng tâm linh khác, nó sanh khởi lên từ những nhân duyên, điều kiện nhất định. Trong trường hợp này, nhân
duyên chủ yếu là bộ nhớ lưu trữ những suy nghĩ và nhận thức trong tiềm thức. Hiển
nhiên, những ký ức là mảnh đất màu mỡ để trưởng dưỡng trực giác phải là những ký ức có cường độ mạnh, rõ nét và có nhiều đặc tính
khác biệt; bởi vì đó
là những ký ức dễ tiếp cận nhất. Ở đây cũng vậy, mối quan hệ nhân duyên của đối tượng nhận thức được lưu trữ trong ký ức có
đóng góp rất lớn. Những hồi ức loại này có tính
liên kết lớn hơn những sự kiện riêng rẽ, rời rạc và mơ hồ; và chúng sẽ tham gia tạo dựng những hình thái ý nghĩa mới một cách
dễ dàng hơn. Những hình ảnh hồi ức rõ
ràng này sẽ là những nhân
tố kích thích và trợ giúp mạnh mẽ cho trực giác.
Trong những tầng sâu kín của vô thức, công việc thu thập và tổ chức vật liệu: bao gồm tri thức và kinh nghiệm nhận thức, vẫn tiếp tục diễn ra một cách thầm lặng cho đến khi nó chín muồi và nổi lên thành trực giác. Sự bùng nổ trực giác ấy đôi khi bắt nguồn từ những sự kiện hết sức thường tình. Tuy nhiên, mặc dù có vẻ là thường tình, song những sự kiện đó lại có khả năng liên tưởng, kết nối mạnh nếu trước đó chúng đã là đối tượng của sự chú ý liên tục. Công năng làm chậm và tạm dừng của ghi nhận thuần túy sẽ làm bộc lộ những chiều kích sâu sắc của những sự việc đơn giản trong cuộc sống đời thường, và do đó cung cấp tác nhân kích thích cho trực giác phát triển.
Trong những tầng sâu kín của vô thức, công việc thu thập và tổ chức vật liệu: bao gồm tri thức và kinh nghiệm nhận thức, vẫn tiếp tục diễn ra một cách thầm lặng cho đến khi nó chín muồi và nổi lên thành trực giác. Sự bùng nổ trực giác ấy đôi khi bắt nguồn từ những sự kiện hết sức thường tình. Tuy nhiên, mặc dù có vẻ là thường tình, song những sự kiện đó lại có khả năng liên tưởng, kết nối mạnh nếu trước đó chúng đã là đối tượng của sự chú ý liên tục. Công năng làm chậm và tạm dừng của ghi nhận thuần túy sẽ làm bộc lộ những chiều kích sâu sắc của những sự việc đơn giản trong cuộc sống đời thường, và do đó cung cấp tác nhân kích thích cho trực giác phát triển.
Điều này cũng được áp dụng với trí tuệ trực giác chứng nghiệm chân lý Tứ Thánh Đế (bốn sự thật cao thượng: khổ, nguyên nhân
của khổ, con đường diệt khổ, và sự đoạn diệt khổ), mà đỉnh cao là sự giải thoát hoàn toàn (arahatta).
Trong kinh điển ghi lại nhiều trường hợp các vị Tăng và Ni không thể đạt được trí tuệ trực giác khi thực hành thiền. Tia chớp trực giác đôi khi chợt đến với họ trong những hoàn cảnh rất khác nhau:
khi vấp chân phải hòn đá hay lúc nhìn thấy một đám
cháy rừng, khi bắt gặp hình ảnh một đám bọt trên sông. Ở đây chúng ta thấy lại một điều khẳng định câu nói dường như rất mâu thuẫn là: “với chủ ý, đạt đến trạng thái
không còn chủ ý”. Với chủ ý đưa toàn bộ ánh sáng chánh niệm soi chiếu từng hành động và sự việc nhỏ nhất trong cuộc sống hàng ngày, cuối cùng trí tuệ giải thoát sẽ sanh khởi.
Sự chú ý liên tục không
chỉ cung cấp mảnh đất màu mỡ cho trực giác
phát triển, mà còn giúp chúng ta tận dụng tốt hơn và thậm chí có thể tái lập lại những khoảnh khắc trực giác ấy. Nhiều người hoạt động trong các
lĩnh vực sáng tạo khác nhau đều phàn nàn giống nhau
về một kinh nghiệm là: tia chớp trực giác xuất hiện quá đột ngột và biến mất quá nhanh đến nỗi phản ứng chậm chạp của tâm không kịp nắm bắt được nó. Nhưng khi tâm đã được huấn luyện tạm dừng để quan sát, làm chậm lại và chú ý liên tục, và nếu vô thức được tác động như đã nói ở trên, thì khoảnh khắc trực giác
sẽ trở nên hoàn chỉnh hơn, chậm rãi và mạnh mẽ hơn.
Trong trường hợp đó, tác động của nó sẽ đủ mạnh và rõ ràng, cho phép chúng ta tận dụng đầy đủ khoảnh khắc trí tuệ trực giác ấy. Thậm chí có thể kéo những xung động đang trên đà đi xuống lên tới đỉnh cao mới, tương tự như những giai điệu nhạc trong một bài hát, khi đi xuống lại được hòa âm lên cao, tiếp nối từ những nốt nhạc cuối cùng của giai điệu trước.
Trong trường hợp đó, tác động của nó sẽ đủ mạnh và rõ ràng, cho phép chúng ta tận dụng đầy đủ khoảnh khắc trí tuệ trực giác ấy. Thậm chí có thể kéo những xung động đang trên đà đi xuống lên tới đỉnh cao mới, tương tự như những giai điệu nhạc trong một bài hát, khi đi xuống lại được hòa âm lên cao, tiếp nối từ những nốt nhạc cuối cùng của giai điệu trước.
Tận dụng đầy đủ những khoảnh khắc trí
tuệ trực giác là điều quan trọng mang tính
quyết định đối với sự tiến bộ của thiền sinh trên đường tới đạo quả giác ngộ. Nếu như sự nắm bắt của thiền sinh quá yếu, để những khoảnh khắc trí tuệ trực giác thoáng qua ấy trôi qua mà
không tận dụng triệt để cho công việc giải
thoát, thì chúng có thể sẽ không đến lại cho đến nhiều năm
sau đó, hoặc có thể không còn đến lại trong
suốt cả cuộc đời. Tuy
nhiên, khả năng duy trì sự chú ý liên tục sẽ cho phép chúng ta tận dụng triệt để những cơ hội như thế, và việc tạm dừng và làm chậm (mọi phản ứng-để quan sát) trong thiền tập là công cụ quan trọng để đạt được khả năng ấy.
Qua sự phân tích về sự tạm dừng, làm chậm và giữ yên, một trong những định nghĩa truyền thống về chánh niệm trong kinh
điển Pali sẽ trở nên dễ hiểu hơn, ý nghĩa sâu xa của nó trở nên rõ ràng hơn: đó là chức năng anapilāpanatā,
nghĩa đen là “không nổi trên bề mặt, không trượt đi”, “Giống như một cái vò đất trên mặt nước”, như chú giải nói.
“Chánh niệm thể nhập sâu vào đề mục, thay vì lướt đi vội vàng, qua
loa trên bề mặt của nó”. Do đó,
“không hời hợt, nông cạn” là một cách hiểu đúng đắn về thuật ngữ đó, và đó cũng là một đặc tính thiết yếu của chánh niệm.