Như vậy
thì sự tỉnh thức và nhận biết đó là ta, hay dòng tư tưởng đó là ta?
Đa số người mới
học thiền thường có ác cảm với những niệm tưởng luôn dao động, và cho rằng đó
chính là "kẻ thù" của tâm tỉnh thức. Trong nhà thiền gọi các tư tưởng
dao động đến và đi, sinh và diệt liên tục ấy là vọng niệm, hay tạp niệm. Còn sự
tỉnh thức và nhận biết mà chúng ta vừa bàn đến được gọi là chánh niệm. Sự phân
biệt gọi tên như thế cũng làm cho không ít người đi đến chỗ chia tách chánh
niệm và vọng niệm như là hai đối tượng trái ngược nhau. Và cũng thật dễ hiểu
khi chánh niệm được xem là "phe ta" mà vọng niệm tất nhiên là
"phe địch".
Thật ra, nếu bảo
chánh niệm là ta mà vọng niệm chẳng phải là ta, vậy khi chưa thực hành thiền
quán, chưa có chánh niệm, "cái ta" lẽ nào chưa từng hiện hữu hay sao?
Và khi thực hành thiền quán, có được chánh niệm, nếu bảo chánh niệm ấy là ta,
vậy "cái ta" đó là từ đâu sinh ra? Rõ ràng sự phân biệt này đã đi đến
chỗ bế tắc.
Tuy nhiên, chánh
niệm nhận biết vọng niệm là điều có thật. Vậy lẽ nào cùng lúc có cả hai
"cái ta", một "cái ta vọng niệm" và một "cái ta chánh
niệm"? Cách hiểu này cũng không ổn.
Vì thế, đi sâu vào
thiền quán chúng ta sẽ nhận ra chánh niệm và vọng niệm thật ra cũng chỉ là từ
nơi tâm sinh khởi, không thể chia tách ra thành hai đối tượng khác nhau. Chính
điều này giải thích được lý do vì sao khi chúng ta càng cố gắng dẹp bỏ các vọng
niệm đi thì chúng lại càng sinh khởi mạnh mẽ hơn, nhưng một khi ánh sáng chánh
niệm bắt đầu soi rọi thì tự nhiên dòng sông tạp niệm sẽ trở nên hiền hòa, dễ
chịu.
Chánh niệm hay
vọng niệm, hay gọi tên theo một cách khác, chân tâm hay vọng tâm, không phải là
hai đối tượng để chúng ta có thể lấy hoặc bỏ. Bỏ vọng tâm đi thì cũng không có
chân tâm. Chúng chỉ là hai biểu hiện khác nhau của cùng một tâm. Trong nhà
thiền thường dùng hình ảnh sóng và nước để minh họa cho điều này. Sóng hiện ra
trên mặt nước như những hình ảnh cá biệt, cụ thể, nhưng sóng đó cũng chính là
nước. Mặt nước yên lặng kia, tuy nhìn thấy có sự khác biệt, nhưng cũng chính là
sóng. Sóng và nước tuy hai mà một. Có thể có những lúc "sóng lặng" để
"nước yên", nhưng từ chối không thừa nhận sóng thì cũng chẳng còn có
nước.
Tương tự như thế,
khi chúng ta duy trì được chánh niệm, thường xuyên tỉnh thức và nhận biết, thì
"sóng vọng niệm" sẽ dần dần lắng xuống, và mặt "nước chân
tâm" hiển hiện yên bình. Còn khi chánh niệm bị mất đi, ngoại cảnh tác động
vào tâm sẽ dễ dàng làm cho những đợt "sóng vọng niệm" nối tiếp nhau
mà nổi lên không cùng tận.
Hiểu được như vậy,
người ngồi thiền sẽ không còn ác cảm với vọng tâm, mà sẽ có thái độ ôn hòa hơn,
cảm thông hơn. Ngay từ thái độ đó, ánh sáng chánh niệm mới có thể bắt đầu tỏa
chiếu để mang lại sự sáng suốt cần thiết giúp chúng ta nhận ra vấn đề.
Hình ảnh sóng và
nước còn cho thấy tính chất đồng thể giữa chân tâm với vọng tâm. Khi chúng ta
hình dung chánh niệm như ngọn đèn soi sáng vào những chuyển biến, thay đổi của
dòng sông tư tưởng, chúng ta thường nhầm lẫn một điều là, nhận thức về tâm nhận
biết với tâm vọng động như hai tính chất khác biệt, thậm chí trái ngược nhau.
Tuy vậy, thật ra thì chúng chỉ là một, đồng nhất với nhau về bản chất. Vì thế,
chánh niệm không phá tan hoặc diệt trừ vọng tưởng như nhiều người vẫn thường
nói, mà là chuyển hóa chúng, đưa chúng trở về với bản chất yên tĩnh, sáng suốt
vốn đã sẵn có.