Các thói quen gắn mình
vào một khuôn mẫu phản ứng nhất định, vào
một chuỗi các hành động nhất định,
cách đánh giá nhất định về con người và sự việc… diễn ra nhờ các dòng suy nghĩ liên tưởng. Từ những đối tượng, các quan
điểm, hoàn cảnh và con người mà chúng ta
gặp, tâm chúng ta lựa chọn một số dấu hiệu nổi bật nhất định và gắn liền dấu hiệu này với các
phản ứng của mình
với chúng. Khi gặp lại đối tượng ấy, hoàn cảnh ấy, đầu tiên chúng
sẽ liên kết với các dấu hiệu được lựa chọn trước kia, và
truy ra phản ứng đầu tiên hay phản ứng mạnh nhất của mình từ những lần gặp gỡ trước.
Vì vậy, những dấu hiệu này
trở thành tín hiệu để phóng thích ra một kiểu phản ứng cố định, có thể bao gồm cả chuỗi dài các hành động và suy
nghĩ liên quan quen thuộc qua những trải nghiệm lập lại nhiều lần trước kia. Cách
thức vận hành
như thế này khiến chúng ta
không cần thiết phải có những cố gắng mới hay khó nhọc suy xét mỗi bước đi trong cả chuỗi phản ứng ấy. Kết quả là một cuộc sống bị đơn giản hóa rất nhiều, cho phép
con người dành năng lượng cho những công việc khác.
Thực ra, trong quá trình tiến hóa của con
người, suy nghĩ liên tưởng là một bước tiến hóa vô cùng
quan trọng. Nó cho phép chúng ta học hỏi từ những kinh nghiệm, từ đó dẫn đến những phát
hiện mới về các quy luật nhân
quả, cũng như việc áp dụng chúng.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích này,
suy nghĩ liên tưởng cũng mang lại rất nhiều nguy hiểm nghiêm trọng nếu được áp dụng sai lầm, bất cẩn và không được kiểm soát cẩn thận. Chúng ta
hãy liệt kê một phần danh
sách những nguy hiểm của nó:
1. Suy nghĩ liên tưởng, tái diễn lại nhiều lần trong
những tình huống tương tự, có thể dễ dàng kéo dài vô tận và củng cố thêm những quan sát sai trái hoặc không đầy đủ ban đầu, những đánh giá
sai lầm và định kiến cảm xúc như yêu, ghét, ngã mạn…
2. Sự quan sát không đầy đủ và cách nhìn, đánh giá hạn hẹp đủ để xử lý một tình
huống nhất định nào đó, lại là không đủ và đưa đến những hệ lụy nghiêm trọng nếu áp dụng một cách máy
móc trong những tình huống
khác.
3. Do suy nghĩ liên tưởng bị định hướng sai, chúng ta có thể cảm thấy rất ghét một sự việc, một nơi chốn hay một người nào đó đơn giản chỉ vì nó gợi lại một kinh
nghiệm không thích thú mà trên thực tế chẳng có liên quan gì đến kinh
nghiệm đó cả.
Những trường hợp trên cho thấy một điều rất quan trọng là thỉnh thoảng chúng ta
phải suy xét kỹ những lối mòn suy
nghĩ của mình, xem lại những thói
quen và những phản ứng rập khuôn
xuất phát từ lối mòn ấy. Nói
cách khác, chúng ta phải bước ra khỏi lối mòn của mình,
có lại cái nhìn trực tiếp về sự việc và đánh giá lại những thói
quen của mình dưới cái nhìn
đó.
Nếu nhìn
lại danh sách những nguy
hiểm tiềm tàng
do dòng suy nghĩ liên tưởng tự do mang lại, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn lời Đức Phật thúc giục chúng ta tiếp cận đến ngọn nguồn của kinh nghiệm. Trong bài kệ “Hang Đá” rất ngắn gọn và sâu sắc trong kinh tập Suttanipāta, Đức Phật nói: “hiểu biết xuyên thấu những cảm nhận giác
quan (phassa - xúc) sẽ khiến con người giải thoát khỏi tham” và
“hiểu biết về tưởng tri (saññā-quá
trình nhận thức kinh
nghiệm), con người sẽ vượt qua được luân hồi”
(vv.778ff.).
Bằng cách thiết lập chánh niệm như một người gác cửa ở ngay chỗ suy nghĩ xâm nhập vào tâm, chúng ta sẽ kiểm soát được những kẻ xâm nhập một cách dễ dàng hơn, và ngăn không cho những kẻ không có phận sự bước vào. Nhờ vậy, sự thanh tịnh của “tâm sáng
suốt” sẽ được duy trì để chống lại “những phiền não
ngẫu nhiên” xâm nhập tâm
(AN1:51).