Chúng ta đã nói rất nhiều về chữ tu và tu làm sao
cho được thanh tịnh. Cũng như rất nhiều Phật tử đã đề cập đến vấn đề
thanh tịnh, nhưng lại không thấu triệt hết được mạch nguồn của thanh
tịnh. Thanh tịnh là căn bản của người tu Phật, và là cội nguồn của một xã
hội văn minh. Cho nên bất luận trong đạo hay ngoài đời ta phải tu tập đức
thanh tịnh. Đức Phật đã dạy: Hễ thân, miệng, và ý mà trong sạch, là sẽ
được sanh về cõi Phật. Tuy nhiên,
cái thanh tịnh mà ta có được ở cõi nước tạm bợ nầy chỉ là sự thanh tịnh tương
đối mà thôi; chỉ khi nào ta tu cho dứt được sanh tử luân hồi thì khi ấy toàn bộ đều tĩnh lặng.
Khi nói đến thanh tịnh thì ta phải hiểu là thanh
tịnh cả căn, trần, và thức. Phật giáo tin theo thuyết duyên sinh.
Duyên sinh có nghĩa là vạn vật do duyên hòa hợp mà có. Đối với Phật giáo,
con người là do sự kết hợp của sinh lý, vật lý và tâm lý. Nếu thiếu một
trong ba thứ nầy thì không có sự tổng hợp nào cả. Sinh lý ở đây chỉ sáu
căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý. Vậy ý ở đây chỉ sáu trần (ngoại
cảnh); và tâm lý chỉ sáu thức.
Căn, trần, và thức là một cái đỉnh ba chân; thiếu
một chân thì đỉnh không thể nào đứng được. Sáu trần và sáu thức phải nhờ
môi giới của sáu căn để tác dụng. Trần (ngoại cảnh) và thức mà không có
sáu căn thì không có tác dụng gì cả. Thí dụ như nói là cảnh đẹp, mà không
có mắt để thấy thì không có chuyện gì xảy ra cả. Sáu trần và sáu căn mà
không có thức thì không có sự phân biệt. Tương tự, sáu căn và sáu thức
phải có trần (ngoại cảnh) mới có công dụng. Thí dụ như mặt hồ, bóng phản
chiếu và sự thấy bóng phản chiếu; trần là cái mặt hồ, nhờ căn và thức phối hợp
mà ta biết có cái bóng phản chiếu trên mặt hồ. Bây giờ ta trở lại một
chút về chữ thiền. Thiền là trở về với thực tại, là sống tỉnh thức, là
thực nghiệm nơi chính mình để thấy rõ bản chất của tâm. Hồi ta chưa biết
tu thiền thì ta cho sáu căn, sáu trần, và sáu thức tha hồ mà tác dụng với nhau;
bây giờ ta biết thiền rồi thì ta phải trở về với thực tại của ta, phải sống
tỉnh thức để tách rời chúng, không cho chúng tác dụng với nhau, thế là thanh
tịnh.
Sáu căn là những cấu tạo sinh lý nơi con người như
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; mà trong đó ý là thần kinh não bộ, là chỉ huy
sở. Còn sáu thức tác dụng giữa tâm lý bên trong và những hiện tượng vật
lý bên ngoài. Mắt có thần kinh thấy; tai có thần kinh nghe; mũi có thần
kinh ngửi, lưỡi có thần kinh nếm; thân có thần kinh tiếp xúc; và cuối cùng ý
phát ra từ chỉ huy sở của thần kinh não. Có cảnh bên ngoài mà không ai là
môi giới thì đâu có thức để mà biết cảnh. Thí dụ một người mù là người
thiếu mất thần kinh thấy; đứng trước cảnh trăm hoa đua nở, người ấy vẫn bình
thản như thường. Thế mới biết có trần mà không có căn thì thức cũng đành
thúc thủ.
Sáu trần là những ngoại cảnh thuộc về màu sắc, âm
thanh, mùi vị, mềm, cứng, nóng, lạnh… Lúc sáu căn tiếp xúc với sáu trần là lúc
mà màu sắc được con mắt thấy; âm thanh được lỗ tai nghe; mùi được lỗi mũi ngửi;
vị được lưỡi nếm; mềm, cứng, nóng, lạnh được thân tiếp xúc; và pháp được ý nhận
biết. Thức dùng để phân biệt và ghi nhớ. Một người chết đã mất đi
sáu căn thì dù có trần hiện diện, thức cũng không có tác dụng.
Như trên đã thấy sự liên hệ dây chuyền của căn,
trần, và thức. Trong ba thứ nầy, tuy căn chỉ là những sinh lý bình
thường, nhưng hễ cột được nó, đương nhiên nó không chạy theo trần được thì tự
nhiên không phản ứng tự nhiên thành, thức cũng bị ta ràng buộc nốt. Chính
vì thế mà ta thường hay nghe nói tu cho sáu căn thanh tịnh. Làm sao cho
sáu căn thanh tịnh? Hãy nhìn vào tấm gương của Đức Từ Phụ, Ngài đã ngồi
dưới cội Bồ Đề liên tục bốn mươi chín ngày đêm. Ngài làm gì? Ngài
có thừa định lực để đạt được thanh tịnh; tuy nhiên, Ngài muốn vẽ lại một bức
tranh thật về thiền cho chúng đệ tử về sau nầy nương theo đó mà tu hành.
Ngài đã không nói gì khi Ngài ngồi đó, nhưng cái không nói của Ngài nó hàm chứa
cả một bài pháp vĩ đại: Hễ sáu căn đã thanh tịnh rồi thì trần và thức cũng
thanh tịnh.
Từ vô thủy đến nay, mọi tội lỗi đều do sáu căn tạo
ra. Như mắt tham sắc; tai tham nghe; mũi tham ngửi; lưỡi tham nếm vị ngon
ngọt; thân tham tiếp xúc với những êm dịu; và ý tham vui. Tham mà không
được thì sanh ra sân hận; tham quên mất đạo lý và lẽ phải. Nhưng do đâu
mà có tham và sân? Si mê chính là nguồn gốc đẻ ra tham và sân.
Chính từ tham, sân, si mà ta phải mang những phiền não vào thân; cũng vì tham,
sân, si mà ta quên mất lẽ phải và đạo lý mà làm điều càn bậy rồi phải ân hận cả
đời. Rồi cứ thế mà ta mãi lăn trôi trong luân hồi sanh tử.
Sáu căn buông lung là cội rễ của tội lỗi, phiền
não và luân hồi sanh tử. Muốn được thanh tịnh và thoát ly khỏi sanh tử
luân hồi, con đường duy nhất của người Phật tử là hãy đến quỳ trước Đấng Thiện
Thệ mà thành khẩn rằng từ nay con nguyện sẽ hành trì những pháp môn của Đức Từ
Phụ đã dạy, rằng từ nay con cũng sẽ ngồi như Ngài đã từng ngồi dưới cội Bồ Đề
năm xưa. Con quyết chí hành trì cho được giới, định để cũng sẽ phát trí
tuệ như Ngài.
Nói là giới, định, và tuệ, chứ thật ra chỉ cần ta
giữ giới và thiền định thì trí tuệ tự nhiên phát sanh. Muốn đạt giới và
định thì ta phải tu cả thân lẫn tâm. Thân thì cột sáu căn, còn tâm thì
định tĩnh loại bỏ đi những niệm, xấu cũng như tốt đều phải loại bỏ. Loại
bỏ bằng cách nào? Hãy nhìn và học theo gương của Đức Từ Phụ ngày xưa;
Ngài đã thiền dưới cội Bồ Đề liên tục suốt 49 ngày đêm để đạt đến đại
định. Ngài đã thành Phật vì Ngài có cái tâm kiên cường và định
tĩnh. Phật tử nếu thấy mình hãy còn cái thân tâm buông lung thì hãy ngay
từ bây giờ nên loại bỏ những hành vi bất thiện.
Loại bỏ bằng cách nào? Chính Đức Thế Tôn đã
dặn dò các đệ tử là về sau nầy không có Ngài, các đệ tử nên lấy giới luật làm
thầy. Ngài đã dặn dò rằng nếu ta không giữ giới thì tâm sẽ không bao giờ
định. Giới chính là cái bánh lái đưa thuyền đến giác ngộ. Như vậy
ta thấy rõ ý của Phật là dặn dò chúng sanh phải đi từng bước từ giới, rồi đến
định thì tự nhiên trí tuệ sẽ phát sanh. Không có giới, như thuyền không
lái thì hãy khoan nói đến chuyện dong thuyền ra biển vì trước sau gì thuyền
cũng sẽ hoặc bị nhận chìm, hoặc bị xô dạt đến một chân trời vô định nào đó, chứ
chẳng bao giờ đến bến đâu.
Thanh tịnh có dễ không? Như trên đã nói,
đường tu không phải dễ thì đường thanh tịnh cũng không phải dễ. Ngay ở
bước đầu đi đến thanh tịnh, đã mấy ai làm được, đã mấy ai giữ được giới.
Phật đã khẳng định rằng hễ không giữ được giới thì không bao giờ có được định
đâu, đừng thiền chi cho mệt và phí thì giờ. Có chăng chỉ là những giờ
phút trống rỗng; cũng có lợi nhưng chẳng đi đến đâu cả. Đường thanh tịnh
như vậy khó quá. Vâng, khó đấy, nhưng không vì thế mà không làm được.
Là Phật tử chân chánh ta quyết tâm noi theo gương
của Đức Từ Phụ, quyết giữ gìn giới luật, lúc nào cũng coi giới luật như những
dụng cụ dập tắt lửa tham, sân, si và ái dục, nên lúc nào cũng mang giới luật
theo bên mình. Hễ những thứ lửa ấy nổi lên là ta dập tắt ngay; quyết
không cho một đốm lửa, dù nhỏ, ngun ngún trong ta. Được như vậy thì cho
dù xem thử, nghe thử, ngửi thử, mặc thử… ta cũng quyết không làm. Vì hễ
còn làm là ta còn ham thích, là còn không buông bỏ; mà không buông bỏ thì sẽ
không bao giờ có thanh tịnh. Xin hãy học lấy cái gương vĩ đại của Đức Từ
Phụ, đừng chạy theo cảnh, dù cảnh đẹp; đừng nếm, dù là mỹ vị; đừng chạy theo
pháp; đừng để cho giác quan sinh lý của ta chuyển theo cảnh cám dỗ của trần tục
nữa. Có được như vậy, không đợi gì Niết Bàn bên kia, mà hiện tại ta đang hiểu
rõ bản chất của tâm rồi, hiện tại đã là một Niết Bàn an nhiên và tự tại lắm
vậy.