Chính cái phóng tâm nó che
mờ lương tri và thúc đẩy ta chạy theo những dục vọng. Nó là đám mây đen
che phủ sự trong sáng của bầu trời. Vì nó mà cái tâm vốn sáng suốt và
tĩnh lặng của ta trở nên u tối và loạn động; cũng chính vì nó mà ta không còn
biết đâu là chân, đâu là giả để phải ôm giả làm thiệt. Vì nó mà ta không
phân biệt được đâu là tà, đâu là chánh, đâu là hay, đâu là dở…
Đức Từ Phụ đã dạy rằng muốn cho ta đừng chạy theo
dục vọng mà phải lãnh lấy khổ đau thì cách duy nhất là phải chận đứng phóng tâm.
Thế nào là phóng tâm? Tâm là cái gì mà chả bao giờ có ai thấy được nó, còn
tâm nó đã đè nặng xuống thân phận bé bỏng của con người từ vô thủy. Thế
mới thấy “Tâm” là đầu mối của mọi việc. Chúng ta bắt nguồn từ một cái gì
bao la thăm thẳm như bầu trời không một vẩn mây. Thế rồi chính từ “Tâm”
mà ta lạc bước vào những khu rừng vô minh không có lối ra. Chúng ta lạc
hết bước nầy đến bước khác; đi đến muôn vạn nẻo đường để rồi bây giờ không biết
mình là ai.
Không biết mình từ đâu tới, tên thật là gì; mình
muốn làm gì và muốn đi đâu, mình cũng không biết nốt. Hết ngày nầy qua
năm khác, chúng ta cứ mãi dong ruổi đi tìm, mà tìm cái gì chính mình cũng không
biết. Tìm chưa được cái nầy thì đã mất cái kia… Cái “Tâm” mà bấy lâu nay
dong ruổi, lạc bước để cho ta đến nỗi phải thân tàn ma dại ấy là phóng tâm.
Một người khéo tu, đừng dong ruổi nữa, đừng dài dòng biện luận nữa, mà hãy tìm
cách kéo nó lại. Tâm ta bấy lâu nay như một loài trâu hoang, đã dậm đạp
và phá hại biết bao mùa màng của ta và của người, thế mà ta vẫn vỗ tay đồng
tình. Bây giờ tu rồi, thì trâu có đi hoang, ta kéo nó về. Trâu có
dậm đạp lúa mạ, ta cột nó lại… Cứ làm và làm mãi như thế cho đến khi trâu thuần
mới thôi.
Mục đồng chăn trâu bằng dây vàm xỏ mũi, bằng những
tiếng la hét, hoặc bằng những ngọn roi không nương tay. Còn ta chăn tâm
bằng gì? Tâm chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài. Mở mắt ra cũng
không thấy, mà nhắm mắt lại thì càng không biết nó ở đâu. Tâm không có
thực thể, không có hình tướng. Tâm chẳng phải là sự va chạm bên ngoài, mà
cũng không phải là sự suy nghĩ bên trong. Mắt thấy, tai nghe cũng không
phải là tâm vì những người mới chết, mắt và tai họ vẫn còn đó, nhưng họ có thấy
và có nghe được đâu? Nếu nói rằng sự hiểu biết phân biệt là tâm thì khi
rời cảnh vật hiện tiền, có còn sự hiểu biết phân biệt nữa không? Nếu
không thì sự hiểu biết phân biệt cũng chẳng là tâm.
Nói đến tâm, càng nói
càng khó hiểu. Nếu ta đi sâu vào tâm thì không một bút mực nào có thể
diễn tả cho cùng tột. Vậy ta cứ tạm gọi tâm là cái “Thấy biết chân thật”
đi. Cái thấy biết chân thật nầy nó không cùng, không tận. Nó như
bầu trời trong, xanh thẳm, không một vẩn mây. Nó không giả, không thật,
vì hễ nói có “thật” ắt có “giả.” Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy cũng
lại như vậy, đều là bản chất của tâm. Trăng chỉ có một, không thật, không
giả. Nếu ai vẫn còn chấp có cái thấy và cái bị thấy, ấy là chưa hiểu rõ
bản chất của tâm. Cái bản chất của tâm nầy không tự nhiên mà có, cũng
không do nhân duyên mà sanh ra. Nếu phàm phu chúng ta để tâm suy nghĩ và
dùng lời để bàn luận về tâm thì chẳng khác chi những người quơ tay chụp bắt lấy
hư không, chỉ thêm mệt chứ có bắt được gì đâu? Có ánh sáng hay không có
ánh sáng thì cái thấy biết chân thật nó vẫn còn đó; ta vì chưa hiểu rõ bản chất
của tâm mà cho là không thấy biết, thế thôi. Chính cái chỗ khó phân biệt
nầy mà đa phần phàm phu chúng ta cứ mãi nhận giả là thật, rồi cứ tiếp tục lăn
trôi trong dòng sanh tử luân hồi.
Thay vì thẳng đường đi, chúng ta không làm, mà
chúng ta dừng hết trạm nầy đến trạm khác, góp nhặt hết rác rưởi nầy đến rác
rưởi khác. Theo Đức Phật thì tâm là cái gì vẫn thường còn khi rời cảnh
vật hiện tiền. Phải hiểu cho rõ lời Phật dạy thì ta mới có cơ hội giữ nó
lại được. Lời Phật dạy rất đơn giản và dễ hiểu: “Cái gì vẫn thường còn
khi rời cảnh vật hiện tiền, đó là cái tâm.” Như trên đã nói, mục đồng
chăn trâu bằng giây vàm xỏ mũi, bằng những tiếng la hét, hoặc bằng những ngọn
roi không nương tay… Tay cũng phải chăn giữ “Tâm” ta bằng những cách tương tự,
cũng không nương tay bởi vì hễ hở ra một chút là nó vuột chạy.
Chúng ta lấy gì để chăn giữ “Tâm?”
Theo Đức Phật thì con đường duy nhất để phát trí
tuệ rồi từ đó nhận biết được bản chất của tâm là phải trì giới và thiền
định. Không trì giới thì đừng nói đến chuyện thiền và chuyện định.
Làm sao mà định cho được khi con vượn vẫn còn chuyền hết từ cành nầy qua cành
khác? Như vậy, người Phật tử, dù xuất gia hay tại gia, muốn chăn giữ
“Tâm” mình cho chuyên chính phải hội đủ ba điều kiện cần yếu:
1.
Dùng giới luật nhiếp phục
tự tâm;
2.
Phải giữ giới tâm mới sanh
định;
3.
Phải có định thì tâm mới
phát trí tuệ.
Biết rõ như vậy, nếu tâm chúng ta vẫn còn tham
lam, dâm dục thì khoan hẳn ngồi thiền vì cho dù có thiền vạn kiếp đi nữa thì
luân hồi sanh tử vẫn còn đó. Tu hành là quyết chí buông bỏ trần lao, mà
hãy còn tham lam dâm dục tức là chưa buông bỏ. Theo Đức Từ Phụ thì những
ai một mặt muốn tu, mặt khác vẫn còn tham lam dâm dục thì cho dù có phát trí
tuệ cũng sẽ bị đọa vào ma đạo. Đối với loại người nầy trí tuệ càng cao
thì ma tham muốn càng cao. Ma chúa chẳng hạn; nếu thấp một chút thì
làm ma dân. Chính vì vậy mà trước khi nhập diệt, Đức Từ Phụ đã ân cần dặn
dò Ngài A-Nan rằng: “Vào thời mạt pháp, chúng ma rất thịnh trong thế gian, ưa
làm việc tham dục, xưng là thiện tri thức của chúng sanh, nhằm lôi kéo chúng
sanh thay vì bước đi trên con đường giải thoát, lại đi vào hầm tà kiến, để rồi
cuối cùng phải đi vào địa ngục với chúng.
Như vậy nếu tu thiền mà không
đoạn lòng tham lam dâm dục thì cũng như người nấu cát mà muốn cho thành cơm thì
cho dù có đời đời kiếp kiếp cũng không thành. Đem tâm dâm dục tham lam ra
mà cầu quả Phật thì chỉ có lòe được những ai nhẹ dạ, chứ làm gì ra khỏi được
tam giới và luân hồi sanh tử; mà vẫn còn ôm cái gốc của luân hồi sanh tử thì
đừng nói chi đến chuyện Niết Bàn. Như vậy, trước khi muốn thiền định, hãy
đoạn trừ tham lam, dâm dục, đoạn từ thân đến tâm; đoạn cho tới lúc chỗ nào cũng
tinh khiết rồi hãy tính chuyện thiền, hay đạo và quả…” Khi dạy A-Nan lời nầy
Phật không có ý làm nản lòng nản chí những ai muốn phát trí tuệ bằng con đường
“Thiền.” Tuy nhiên, Phật muốn cảnh tỉnh chúng sanh đừng để bị lọt vào
lưới rập của Tham, sân, si mê. Phật muốn chúng sanh đừng phí thời giờ
dong ruổi thêm nữa, hãy bắt đầu từ trì-giới, hãy dùng tường vách của giới luật
mà giữ “Tâm” ta lại rồi hẳn nói đến chuyện thanh tịnh, Niết Bàn.