Xả Ba-La-Mật
Cuối
cùng, liên quan đến xả ba-la-mật (upekkhā pāramīs), đó là thái độ vô tư, không
thiên vị đối với tất cả chúng sinh dù vừa ý hay không vừa ý và với các hành,
làm tiêu tan tính hấp dẫn và ghê tởm, có lòng đại bi và trí (hiểu biết) về
phương tiện thiện xảo đi kèm.
Xả
ba-la-mật có đặc tính thúc đẩy khía cạnh trung lập;
Nhiệm
vụ: nhìn mọi sự mọi vật (các pháp) một cách vô tư, bình đẳng;
Sự thể
hiện: lắng dịu ưa và ghét hay hấp dẫn và ghê tởm;
Và suy
xét trên sự kiện rằng các chúng sinh là kẻ thừa tự của nghiệp là nhân gần của xả
ba-la-mật.
Xả
ba-la-mật nên được suy xét như sau: ‘Nếu không có (tâm) xả, những hành động
mích lòng do các chúng sinh khác làm sẽ gây ra sự dao động trong tâm. Và khi
tâm dao động thì không thể nào thực hành các pháp thiết yếu của sự giác ngộ được.’
Và: ‘Mặc dù tâm đã được mềm dịu với nước của từ ái, song không có xả người ta
không thể làm cho những pháp thiết yếu của giác ngộ được trong sạch và cũng
không thể cống hiến những công đức cùng với những quả phước của chúng nhằm thúc
đẩy sự an vui, hạnh phúc của các chúng sinh.’
Hơn nữa,
sự đảm nhận, sự quyết định, sự thành tựu và sự hoàn thành của tất cả những điều
kiện cần thiết của giác ngộ thành công là nhờ sức mạnh của xả. Vì không có xả,
người nguyện thực hành bồ-tát không thể từ bỏ một vật mà không mắc phải sự phân
biệt sai lầm (tính toán thiệt hơn) đối với những vật thí và người thọ thí.
Không có xả vị ấy không thể thanh tịnh giới mà không nghĩ đến những chướng ngại
đối với mạng sống và những nhu cầu thiết yếu của mình. Xả làm hoàn thiện sức mạnh
của sự xuất gia, vì nhờ xả vị ấy vượt qua tình trạng bất mãn và thích thú. Xả
làm hoàn thiện những nhiệm vụ của các pháp thiết yếu nhờ cho trí tuệ khả năng
xem xét chúng đúng theo khởi nguyên của chúng. Khi tinh tấn đề khởi quá mức do
không được xem xét với xả, nó không thể thực hiện nhiệm vụ phấn đấu thích hợp.
Nhẫn nại và nhu thuận chỉ khả dĩ nơi một người có xả. Vì nhờ phẩm chất này, vị ấy
nhìn những thăng trầm của cuộc đời với một cái tâm bình đẳng, và quyết định
hoàn thành những pháp hành mà vị ấy đã đảm nhận trở nên vững chắc không gì có
thể lay chuyển nổi. Và bởi vì vị ấy không quan tâm tới những sai lầm do người
khác tạo, vị ấy hoàn thiện việc an trú trong tâm từ. Như vậy xả được xem là yếu
tố không thể thiếu đối với sự thực hành của tất cả các ba-la-mật khác.
Trên
đây là sự suy xét về xả ba-la-mật.
Sự dập
tắt ưa và ghét là sự hoàn thành của xả. Trong những sự kiện đặc biệt, giữ một
thái độ lơ là không lưu tâm tới một cái gì cả sẽ dẫn đến sự suy yếu của xả. Một
thái độ như vậy không thể gọi là xả. Nó chỉ là sự vô tri hay không ý thức và bị
nghĩ lầm là xả. Xả thực sự không phải là thái độ dửng dưng hay vô tri như vậy.
Nó biết cả hai — thiện đưa đến an vui hạnh
phúc và ác đưa đến khổ đau. Nhưng người giữ thái độ xả suy xét một cách rõ
ràng: ‘Ta không quan tâm đến vấn đề hạnh phúc và khổ đau này; chúng chỉ là kết
quả của những hành nghiệp thiện và ác của họ mà thôi.’
Chú Giải
Netti nói: ‘Sự đãng trí tột độ, ra vẻ như thờ ơ đối với các trần cảnh tốt xấu
khác nhau, là (xả) giả dối. Si (mê) cải trang như xả là (xả) giả dối. Miễn cưỡng
khi làm các việc phước cũng có khuynh hướng lừa dối bằng cách làm ra vẻ bề
ngoài kiểu cách cao thượng như đang thực hành xả. Lơ là trong việc làm các điều
thiện cũng có thể là đang làm bộ hành xả. Do đó hành giả phải tự lưu ý mình
không để bị đánh lừa bởi thái độ si mê hay lười nhác vốn có xu hướng cư xử giống
như xả vậy.
Xả
không phải là thái độ thờ ơ; trái lại, nó chú ý và lưu tâm tới đối tượng quán
(xét). Trong sự lưu tâm này, vị phát nguyện bồ-tát tự nhủ: ‘Chẳng thể làm được
điều gì để cho các chúng sinh kể cả bản thân ta được hạnh phúc hay khổ đau. Ai
có thiện nghiệp sẽ được an vui và ai có ác nghiệp sẽ phải chịu khổ đau. Vì hạnh
phúc hay không hạnh phúc của họ liên quan đến nghiệp quá khứ, không ai có thể
làm được điều gì cho hạnh phúc hay khổ đau của họ được.’ Chỉ có suy xét sâu xa
theo cách sinh động này với các chúng sinh như những đối tượng quán mới tạo ra
xả thực sự. Vì nó không vướng vào lo lắng cũng không bứt rứt khó chịu, nói khác
hơn nó là trạng thái tâm cao thượng, thanh thản và an tịnh.
Trong
Chú Giải Cariyāpitāka có câu chuyện Mahālomahaṃsa Cariya, kể về đức bồ-tát của
chúng ta khi ra sức nỗ lực để hoàn thành xả ba-la-mật. Một lần, đức bồ-tát sanh
trong một gia đình giàu có và địa vị. Khi tới tuổi đi học ngài tìm tới một vị
thầy danh tiếng. Sau khi hoàn tất việc học ngài trở về nhà để phụng dưỡng song
thân. Khi cha mẹ chết, quyến thuộc của ngài thúc giục ngài phải bảo vệ và làm
tăng thêm sự giàu có mà ngài đã được thừa hưởng.
Tuy
nhiên đức bồ-tát đã hình thành một nỗi sợ hãi đối với các cõi sống (tam hữu) và
sự sợ hãi của ngài là do thấy tính chất vô thường của các pháp hữu vi. Ngài
cũng nhận thức được tính chất đáng ghê tởm của thân xác này và hoàn toàn không
muốn bị rối ren trong rừng rậm của những phiền não liên hệ tới đời sống gia
đình. Thực vậy, ước muốn xuất ly dục trần từ lâu đã tăng trưởng trong ngài. Vì
thế ngài muốn từ bỏ thế gian sau khi đã từ bỏ số tài sản kếch xù mà ngài được
thừa hưởng. Nhưng ngài tự nghĩ ‘Do những lời khen, sự xuất gia của ta sẽ làm
cho ta trở nên nổi tiếng’. Vì ngài không muốn danh, lợi và được mọi người kính
trọng, nên ngài chưa từ bỏ thế gian. Để tự thử xem mình đã có thể giữ tâm vững
vàng không lay động trước những thăng trầm của cuộc đời như được, mất; khen,
chê…hay chưa, ngài mặc quần áo bình thường của hàng dân dã và rời nhà. Ước nguyện
của ngài là để thành tựu hình thức cao nhất của xả ba-la-mật bằng cách chịu đựng
sự bạc đãi của mọi người. Sống một đời sống khổ hạnh cao thượng, ngài bị người
ta nghĩ là một con người lập dị nhu nhược, người không bao giờ bộc lộ sân hận với
người khác. Tự xem mình như một người không phải được đối xử với lòng kính trọng
mà với sự hỗn xược, khinh khi, ngài lang thang hết làng này đến làng khác, hết
phố này tới phố nọ, dù lớn hay nhỏ, mỗi nơi ngài chỉ ngủ lại một đêm duy nhất.
Nhưng ở chỗ nào người ta tỏ ra hỗn xược nhất thì ngài ở lại lâu hơn. Khi áo quần
tả tơi ngài cố gắng che thân bằng bất cứ manh áo nào còn lại. Và khi manh áo ấy
rách nát ngài cũng không nhận bất kỳ món y phục nào của ai mà cố gắng che thân
với những gì có thể dùng được và tiếp tục đi lang thang.
Sau
khi sống một cuộc sống như vậy trong một thời gian dài, ngài tới một ngôi làng
nọ. Những đứa trẻ trong ngôi làng ấy bản chất rất hung hăng. Một vài đứa bé là
con của những phụ nữ goá chồng giao du với
giới cai trị tính tình bất nhất, kiêu ngạo, không chung thuỷ, và ham
thích trong những cuộc nói chuyện phóng túng. Chúng đi đây đó, luôn luôn chọc
ghẹo người khác. Khi chúng thấy những ông già bà lão nghèo khổ đi qua, chúng liền
đi theo và ném tro vào lưng họ. Chúng còn cố gắng nhét những chiếc lá ketaki
vào nách của những cụ già để làm cho họ cảm thấy khó chịu. Khi những cụ già này
quay lại nhìn chúng thì chúng lại bắt chước những điệu bộ đi đứng của họ như
còng lưng, khèo chân, làm bộ câm ngọng v.v… và rồi phá lên cười với nhau.
Khi đức
bồ-tát thấy những đứa trẻ ngỗ nghịch này ngài nghĩ: ‘Bây giờ thì ta đã tìm được
một phương tiện hỗ trợ hữu hiệu cho sự hoàn thành xả ba-la-mật rồi,’ và quyết định
ở lại trong ngôi làng ấy. Nhìn thấy ngài, đám trẻ tinh quái cố gắng giễu cợt và
chọc ghẹo ngài, và ngài làm bộ bỏ chạy như thể ngài không còn có thể chịu đựng
được chúng và như thể sợ hãi chúng vậy. Nhưng bất cứ chỗ nào ngài đi, lũ trẻ vẫn
cứ bám theo ngài.
Đức bồ-tát
tiếp tục chạy tới một nghĩa địa và tự nhủ: ‘Đây là nơi sẽ không ai ngăn được lũ
trẻ tinh quái này làm hại. Bây giờ ta đã có cơ hội để hoàn thành xả ba-la-mật đến
mức lớn nhất.’ Ngài đi vào nghĩa địa và ngủ ở, đó lấy một cái sọ người làm gối.
Có được cơ hội để thoả mãn những trò độc ác của mình, lũ trẻ ngu si đi đến chỗ
đức bồ-tát ngủ và xỉ vả ngài bằng nhiều cách khác nhau, chúng còn khạc đờm, nhổ
nước miếng lên người ngài và làm những điều độc ác khác rồi bỏ đi. Theo cách
này, chúng đối xử tàn nhẫn với ngài mỗi
ngày.
Thấy
những hành vi ngược ngạo mà lũ trẻ độc ác này làm, một số người trí đã cố gắng
ngăn cản chúng. Họ hiểu rằng ‘Đây là một vị đạo sĩ thánh thiện có năng lực rất
lớn’ và mọi người đã đảnh lễ ngài với lòng tôn kính rất mực.
Đức bồ-tát
giữ cùng một thái độ đối với cả hai - lũ trẻ ngu si và những người trí. Ngài
không tỏ ra ưa thích đối với những người trí đã tôn kính ngài và cũng không bộc
lộ sân hận đối với lũ trẻ ngu si đã xỉ vả ngài. Thay vào đó ngài giữ một thái độ
trung lập giữa thích và ghét đối với cả hai phía. Theo cách này, ngài đã thành
tựu xả ba-la-mật.
Giống
như tâm từ, tâm xả là một trong bốn mươi đề mục thiền chỉ và là một trong mười
ba-la-mật (pāramīs). Nếu quý vị thực sự muốn thực hành tâm xả ba-la-mật, trước
hết quý vị phải hành tâm từ, bi và hỷ theo tuần tự cho đến tam thiền. Sau khi
đã xuất khỏi tam thiền, quý vị nên hành (tâm) xả cho đến khi đắc tứ thiền với tất
cả chúng sinh trong vũ trụ vô biên kể như đối tượng. Quý vị cũng phải hành thiền
Minh-sát (Vipassana) cho đến khi đạt đến hành xả trí (saṅkhārūpekkhañāṇa). Đây
là loại xả cao nhất mà quý vị cần phải thành tựu.
Tôi sẽ
chấm dứt bài giảng tối nay ở đây. Cầu mong những người ước nguyện thực hành bồ-tát đạo sớm trở thành một vị bồ-tát
xác định. Và cầu mong những người nguyện đạt đến Niết-bàn (Nibbāna) sớm thành tựu
mục đích của mình.
CỖ XE ĐẠI GIÁC
(MAHĀBODHIYĀNA)
Tôn Giả Āciṇṇa, Dhammācariya – Pháp
Sư
Aggamahākammaṭṭhānācariya – Đại Trưởng
Lão Thiền Sư
Trưởng Ban Thiền Sư và Cố Vấn Thiền
Trung Tâm Rừng Thiền Phật Học Quốc Tế
Pa-Auk, Myanmar
Tỳ kheo Pháp Thông dịch thuật