TIỂU SỬ CỦA NGÀI THIỀN SƯ PA-AUK SAYADAW,
BHADANTA ĀCIṆṆA
a Waso Miến lịch
1296 ( tháng 7 năm 1934 DL), trong một gia đình trung lưu tại thôn Leik-Kyaung
thuộc thị xã Hin-Tha-ta ( Haṇsāta). Cha là ông U Pyu, mẹ là bà Daw Soe Tin, cả
hai đều là người Burma.
Ngài là con thứ tư
trong gia đình năm anh chị em. Có điều kỳ lạ là sau khi Ngài chào đời, cha mẹ
Ngài làm ăn ngày một khấm khá hơn. Tuy không giàu nứt đố đổ vách, nhưng cả gia
đình có một cuộc sống tương đối an cư lạc nghiệp.
Lúc thiếu thời,
Aung Than vốn là người trầm lặng, ít nói, không làm phiền đến cha mẹ cũng không
gây sự với bạn bè cùng trang lứa. Hơn thế, cậu còn lễ phép với người lớn, và hiếu
thảo đối với bậc song thân.
Lúc lên sáu tuổi,
Aung Than chuẩn bị cắp sách đến trường, nhưng cậu không được gởi vào học tại
các trường phổ thông cơ sở. Thay vào đó, cậu được cha mẹ cho vào chùa làng ở học
với Ngài Salin Sayadaw, Bhadanta Soṇa.
Aung Than rất vui
thích khi được ở trong tu viện, và chẳng nghĩ đến việc trở về nhà nữa. Khác với
các cậu bé khác ở trong chùa, Aung Than không tụng đọc inh ỏi trong khi học bài
mà chỉ xem qua chốc lát là thuộc nằm lòng. Vì thế cậu được Bhadanta Soṇa và chư
tăng trong chùa hết lòng yêu mến.
“Gần mực thì đen,
gần đèn thì sáng”; vì ở trong chùa gần Phật cạnh Tăng, bồ đề tâm của cậu bé thiếu
nhi hội đủ nhân duyên để nảy mầm, lòng cung kính và đức tin trong sáng đối với
Tam Bảo ngày một phôi thai. Kết quả là Aung Than muốn xuất gia trở thành sa-di
để học hành Phật Pháp.
Lúc lên 9 tuổi, cậu
bé đi về nhà gặp cha.
-
“ Ba à ... làm lễ thọ giới sa-di cho con đi...”
-
“Ừ ... con vẫn còn nhỏ mà”.
- “ Dạ ... thọ giới
sa-di thì đâu liên quan gì đến tuổi nhỏ hả ba!”
Cậu bé nói với giọng
điệu chẳng khác nào người lớn khiến cha cậu phải xem xét vấn đề nghiêm túc hơn.
Đồng thời, ông cũng hỏi ý kiến của Ngài trụ trì chùa làng, Bhadanta Soṇa. Được
sự đồng ý của Ngài Soṇa, Aung Than xuất gia sa-di vào ngày 14 tháng trăng khuyết
Ka-soun Miến lịch 1306 ( tháng 5 năm 1944 DL), lúc cậu được 9 năm 10 tháng tuổi.
Pháp danh của chú
tân sa-di là Āciṇṇa. Thầy tế độ là Ngài trụ trì của ngôi chùa làng thân quen -
Bhadanta Soṇa. Đối với sa-di Āciṇṇa, việc xuất gia đầu Phật là sống suốt đời
trong Giáo pháp của Đức Từ Phụ, và phải xa cách cha mẹ cũng như những người
thân.
Vào thời Nhật thuộc,
nhiều người bị ghẻ ngứa lây lan, tiểu sa-di Āciṇṇa cũng bị ở hai tay. Ngài Soṇa
cho chú hoàn tục và trở về nhà để lo trị liệu.
Cậu bé nghĩ rằng
mình sẽ ở nhà không lâu. Quả thật vậy, sau khoảng 2 tuần thì ghẻ ngứa được chữa
lành, và cậu một mình một bóng quay về chùa và xin xuất gia sa-di trở lại.
Khi cha cậu đi làm
về trong đêm hôm lạnh lẽo thì không thấy con mình ở đâu, nên ông vội đi tìm.
Khi tìm trong làng xóm không thấy, ông mới đi đến chùa.
- “Ông thí chủ!
Con ông đã hết ghẻ ngứa rồi; nó xin xuất gia sa-di trở lại, nên Sư đã làm theo
nguyện vọng của nó rồi”, Ngài trụ trì nói.
- “Tuỳ Ngài, con
đã gởi gấm chú ấy cho Ngài rồi; chú ấy đã trở thành con của Ngài rồi đó”, cha cậu
bé đồng ý trả lời.
HỌC PHÁP VÀ THỌ ĐẠI
GIỚI
Sa-di Āciṇṇa theo
học Pháp học căn bản như ngữ pháp Pāḷi, bộ Vi Diệu Pháp nhập môn
Abhidhammatthasaṅgaha vân vân... với Ngài Soṇa. Sau đó chú tiếp tục con đường
“duy tuệ thị nghiệp” khoảng 2 năm với Ngài Bhadanta Mahinda và Bhadanta
Paññavanta tại Phật học viện Ye Kyi, thị xã Hin-Tha-Ta.
Với trí tuệ lớn
trước tuổi, sa-di Āciṇṇa được hai Ngài giáo thọ vô cùng cảm kích. Bởi vậy chú
được phép sang học viện Aung Maṅgala-siddhi tại Yangon vào Miến lịch 1314 (1952
DL) để học Giáo pháp với Ngài Uttama trong bốn tháng an cư kiết hạ. Mãn hạ, chú
lại được phép đến Đại Phật học viện Ma-Soe-Yein tại Mandalay để tiếp tục cầu học
với hai Ngài đại quốc sư ( Abhidhaja Mahāraṭṭhaguru) và Ngài viện trưởng ở đó
trong vòng 2 năm.
Cứ thế, đời sa-di
dao động giữa Yangon và Mandalay để mưu cầu Pháp học. Vào Miến lịch 1316 (1954
DL), sa-di Āciṇṇa vừa tròn 20 tuổi, nên được cho phép thọ đại giới tại Phật học
viện Ye Kyi mới ở thị xã Hin-Tha-Ta vào ngày 8 tháng trăng khuyết Ka-soun (
tháng 5 DL) do Ngài Tăng trưởng của phái Ye Kyi, Bhadanta Pañña, làm thầy tế độ.
Sau đó, tân tỳ-kheo
Āciṇṇa trở lại Mandalay, trú tại Phật học viện Myin Wun ở thị xã Taung Pyin để
tiếp tục theo học Pháp học với Ngài viện trưởng của Phật học viện Myin Wun,
Bhadanta Ukkaṃsa. Đồng thời, đại đức Āciṇṇa cũng học với Ngài viện trưởng của
Phật học viện Thi-lin, Bhadanta Suriya, và giáo thọ sư Bhadanta Paññānanda; với
Ngài viện trưởng của Phật học viện Pha-ya-kyi, Bhadanta Ariya, cũng như với hai
giáo thọ sư là Bhadanta Ukkaṃsa và Bhadanta Kumāra.
Vì rất coi trọng
Phật Pháp, đại đức Āciṇṇa hết lòng học hỏi và nghiên cứu Tam Tạng kinh điển. Vốn
có trí nhớ sắc bén và nghiên cứu Phật học sâu rộng, nên những gì mà đại đức đã
học được cho đến bây giờ vẫn không quên. Đại đức cũng có khả năng rất thông thạo
văn chương Pāḷi.
Đặc biệt, sau khi
nghiên cứu kỹ Tạng Luật, đại đức đã sống và thực hành đúng theo Luật Tạng,
không một mảy may khinh xuất. Sau thời gian ẩn tu cũng vậy, đại đức có thể học
thuộc lòng một cuốn Luật trong vòng một tháng. Tuy nhiên vì cố gắng theo Pháp
hành và chỉ ăn ngày một bữa, nên không thể dành thời gian và sức khoẻ để ôn lại
những gì đã học, và đại đức cảm thấy khó khăn trong việc tụng lại cuốn thứ nhất
sau khi mình đã học xong cuốn thứ hai.
Một lần, đại đức
khiêm tốn nói với một soạn giả rằng: “Trí nhớ của sư không thể so sánh với trí
nhớ của Ngài Tam Tạng pháp sư Bhadanta Vicittasāra1 được. Ngài Tam Tạng pháp sư
có thể nhớ nằm lòng một đoạn Pāḷi sau khi đọc qua 3 lần; và mỗi khi thuộc nằm
lòng rồi, Ngài vẫn còn nhớ trong vòng 21 ngày mà không cần phải ôn tụng lại”.
1 Ngài thông thuộc
Tam Tạng đầu tiên tại Miến Điện và cũng là đáp sư trong cuộc kết tập Tam Tạng lần
thứ sáu tại thủ phủ Yangon (Rangoon)
Đại đức Āciṇṇa
không những thông thạo giới luật mà còn sống và hành theo giới luật nữa. Vì vậy
ở thị xã Mu-don thuộc thị trí Mawlamyine, đại đức được biết đến như là một luật
sư đương đại.
Vào Miến lịch 1318
(1956 DL), đại đức thi đậu bằng Dhammācariya (Pháp sư). Năm 1319 (1957 DL), đại
đức đến Đại Phật học viện Ka-Ba-Aye tại Yangon để học thêm cả nội điển và ngoại
điển suốt 5 năm. Trong thời gian học tại đây, đại đức được học thêm Anh ngữ và
các môn học khác để hổ trợ cho việc truyền bá Phật Pháp dưới sự hướng dẫn của
trưởng ban cố vấn tôn giáo chính phủ ông Phe Aun, ông Hla Maung, và của những
ông nắm nhiều chức vụ quan trọng khác như ông Sao Htun Hma Win, ông Han The,
ông San Myint Aung và ông Thein Aung.
Để được vào Đại Phật
học viện, đại đức Āciṇṇa phải qua kỳ thi tuyển. Đậu kỳ thi tuyển, đại đức tiếp
tục thi bằng Diploma và đã đậu không có gì khó khăn. Sau mấy năm học, đại đức
chuẩn bị bài vở để thi tốt nghiệp cử nhân. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 1962 DL,
các trường đại học bị đóng cửa, nên đại đức đã không hoàn tất khoá cử nhân.
VÀO RỪNG ẨN TU VÀ
HÀNH PHÁP
Từ lâu, đại đức
Āciṇṇa có tâm nguyện rằng: “Sau khi thọ đại giới 10 năm, mình sẽ vào rừng ẩn
tu”. Khi khoá cử nhân Phật học bị gián đoạn cũng là lúc đại đức gần được 10 hạ
lạp, nên đại đức lần này quyết định vào rừng ẩn tu.
Trước khi vào rừng
ẩn tu, đại đức Āciṇṇa đến trung tâm thiền Mahāsi tại Yangon vào Miến lịch 1325
(1963 DL) để cầu học phương pháp thực hành thiền với Ngài Mahāsi Sayadaw và
Ngài U Paṇḍitābhivaṃsa trong suốt 55 ngày. Vốn có ba-la-mật trong Pháp hành, đại
đức đã đắc được các tầng tuệ căn bản của thiền tuệ chỉ trong vòng 1 tháng. Tuy
nhiên vì muốn biết rõ phương pháp thực hành một cách trọn vẹn, đại đức đã thực
hành đến 55 ngày.
Với kiến thức Pháp
học và Pháp hành đã khá vững vàng, đại đức Āciṇṇa đi đến ngọn núi Mya-Tha-Peit ở
gần núi Taung-Zun Kelāsa tại thị trấn Tha-Hton thuộc tiểu bang Mon để ẩn tu một
mình và hành thiền tại đó.
Vì quen so sánh
Pháp học với Pháp hành, đại đức đã đối chiếu, khảo sát những gì mình thực hành
được với những gì học được trong Kinh điển và bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo).
Không vừa lòng với phương pháp đã thực hành, đại đức tìm học các phương pháp thực
hành khác và đã đến nương tựa học với Ngài Than-Lyin Taw-Ya Sayadaw trong 6
tháng rưỡi, và vào năm 1327 (1965 DL) với Ngài Shwe-Thein Taw-Ya Sayadaw tại thị
trấn Kinnī trong 3 tháng rưỡi.
Trong thời gian tu
tập Pháp hành, đại đức Āciṇṇa di chuyển nhiều nơi để thích hợp trú xứ. Đại đức
đã trú tại dãy núi gần núi Nemindara thuộc thị xã Tha-Hton trong 1 năm, tại
trung tâm thiền Kyauk-Ta-Lon Cittasukha Taw-Ya thuộc thị xã Mu-Don trong 3 năm,
và tại trung tâm thiền A-Xin Taw-Ya gần thôn A-Xin thuộc thị xã Ye trong 13
năm.
Vậy đó, suốt thời
gian theo Pháp hành, đại đức Āciṇṇa chỉ ở một mình, không cộng trú với các đồng
môn khác, và hoàn toàn cắt đứt mối quan hệ gia đình và người thân. Đại đức hết
sức tinh chuyên trong việc hành thiền.
Cũng trong thời
gian này, vì ăn một ngày một bữa và ăn rất ít nên đại đức Āciṇṇa mắc phải bệnh
loét dạ dày và bệnh sốt rét. Một lần, tại trung tâm thiền A-Xin Taw-Ya, đại đức
bị bệnh dạ dày hành hạ không đi khất thực được mà chỉ nằm nghỉ trong một cốc nhỏ
và không cho các vị đồng phạm hạnh trong chùa biết, vì sợ ảnh hưởng đến việc
hành thiền của họ. Khi các vị ấy biết đại đức bị bệnh và đến thăm, đại đức mới
cho họ biết sự thật về bệnh trạng của mình.
Vì bệnh dạ dày nên
đại đức đã nhập viện tại bệnh viện Mawlamyine để chữa trị qua một cuộc phẫu thuật.
Đại đức cũng đi Yangon để chữa trị với các bác sĩ chuyên khoa khác. Tuy nhiên cả
hai loại bệnh quái ác này cho đến bây giờ vẫn chưa buông tha cho đại đức. “Phải
chăng chúng là quả của nghiệp trong quá khứ?”; nghĩ vậy, đại đức chấp nhận sống
với chúng và lạc quan trong trách phận của một tỳ-kheo đệ tử Phật đó là trách
phận học Pháp (gantha-dhura) và trách phận hành Pháp (vipassanā-dhura), không một
chút dễ duôi.
TRỞ THÀNH THIỀN VIỆN
CHỦ ĐỜI THỨ BA CỦA THIỀN VIỆN PA-AUK
Đại đức Āciṇṇa tu
tập các pháp hạnh đầu đà như hạnh mặc y được may từ dẻ rách bị vứt bỏ (paṃsukūla-cīvara),
hạnh chỉ mặc tam y, hạnh sống dưới gốc cây v.v...sống đời sống sơn tăng giản dị
và thoả thích trong thiền tập.
Vốn quen biết và sống
gần gũi với Ngài thiền viện chủ đời thứ hai của trung tâm thiền Pa-Auk,
Bhadanta Aggapañña, tại trung tâm thiền Kyauk-Ta-Lon suốt 3 năm, nên đại đức
Āciṇṇa được Ngài Aggapañña biết đến và rất ngưỡng mộ khả năng của đại đức về cả
Pháp học lẫn Pháp hành. Vì vậy, vào tháng Waso Miến lịch 1343 (tháng 7 năm 1981
DL), trong lúc lâm trọng bệnh và nhập viện tại bệnh viện Mawlamyine, Ngài
Aggapañña cho mời gọi đại đức Āciṇṇa đang ở tại trung tâm thiền A-Xin Taw-Ya
thuộc thị xã Ye.
Được mời gọi, đại
đức Āciṇṇa liền đi Mawlamyine để hầu hạ chăm sóc Ngài Aggapañña. Trước khi Ngài
Aggapañña qua đời, Ngài thỉnh cầu đại đức Āciṇṇa giúp Ngài tiếp tục điều hành
trung tâm thiền Pa-Auk. Thật sự, đại đức Āciṇṇa không muốn nhận lời, vì đại đức
sợ công việc của một thiền viện chủ sẽ có ảnh hưởng không tốt đến việc tu tập
Pháp hành. Nhưng để Ngài Aggapañña được an lạc lúc lâm chung, đại đức đành phải
nhận lời thỉnh cầu của Ngài thiền viện chủ. Như vậy Ngài Aggapañña qua đời vào
ngày mồng 5 tháng Waso Miến lịch 1343 (tháng 7 năm 1981 DL), và đại đức Āciṇṇa
trở thành thiền viện chủ của trung tâm thiền Pa-Auk sau đó.
Khi đến trung tâm
thiền Pa-Auk, đại đức Āciṇṇa trình bày cho ban hộ tự biết lý do vì sao đại đức
nhận lãnh trọng trách điều hành trung tâm, và cũng cho họ biết rằng đại đức chỉ
cố gắng điều hành trong một thời gian ngắn mà thôi và ban hộ tự có thể tìm một
vị đại đức khác vừa ý để đảm trách công việc trong thiền viện.
Lại nữa, quen sống
nơi núi rừng thanh vắng, nên đại đức không ở trong trung tâm thiền mà tự mình
đi tìm một nơi khác thanh vắng hơn. Cuối cùng, đại đức phát hiện một khu vườn
xoài và sầu riêng ở giữa hai quả đồi cách trung tâm thiền khoảng 1 cây số rưỡi
về hướng Đông. Thấy thích hợp, đại đức xin phép chủ vườn và nhờ người cất một
cái cốc nhỏ bằng tre nứa ở đó. Ngoài thời gian đi khất thực và độ trai, đại đức
chỉ ở trong cốc để tu tập.
Đối với ban hộ tự,
họ không muốn đại đức Āciṇṇa phải đi nơi khác, vì đại đức là người được chọn bởi
vị thầy thiền viện chủ đời thứ hai khả kính của họ. Vả lại, họ dần dần hiểu được
tài đức Giới Định Tuệ của đại đức Āciṇṇa, nên họ càng kính trọng hơn. Kết quả
là họ không đi tìm một vị đại đức khác để kế nhiệm mà chỉ một lòng thỉnh cầu đại
đức Āciṇṇa thường trú tại trung tâm. Vì vậy, cho đến bây giờ đại đức Āciṇṇa là
thiền viện chủ đời thứ ba của trung tâm thiền Pa-Auk, và đang tích cực đảm
trách công việc hướng dẫn thiền tại đó.
Sự Thiện Đức chuyển dịch từ Miến ngữ