Saturday, August 2, 2014

Giới Ba-La-Mật Được Hoàn Thành Như Thế Nào?



Giới Ba-La-Mật Được Hoàn Thành Như Thế Nào?

Muốn giúp đỡ về vật chất cho người khác trước tiên ta phải cố gắng để có được của cải và tài sản. Tương tự như thế, muốn trang hoàng cho các chúng sinh với những món trang sức của giới vị bồ tát cũng phải bắt đầu bằng việc thanh tịnh giới đức của mình trước.
Ở đây, giới được thanh tịnh theo bốn cách:
1.        Bằng cách làm trong sạch các khuynh hướng (xấu) của mình;
2.        Bằng cách tự mình thọ trì giới từ nơi người khác;
3.        Bằng cách không-vi phạm;
4.        Bằng cách sửa lỗi mỗi khi vi phạm.
Giới, được làm cho trong sạch bằng bốn cách đã nói ở trên, có hai loại, đó là giới kiêng tránh (varitta sīla: chỉ trì giới) và giới thực hành (cāritta sīla: tác trì giới).
Không làm những gì đã được Đức Phật và các bậc thánh khác cấm bằng cách nói, ‘Điều này sai; điều này không nên làm; điều này cần phải tránh.’ Như vậy tránh mười ác hạnh như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, v.v… được gọi là giới kiêng tránh hay chỉ trì giới.
Biểu lộ sự cung kính đối với những bậc đáng tôn kính như thầy tổ, cha mẹ hay những bậc thiện tri thức và thực hiện những công việc phục vụ vô lỗi, hữu ích đối với các bậc ấy được gọi là giới thực hành hay tác hành giới.

 Vị Bồ Tát Giữ Giới Kiêng Tránh Như Thế Nào?

Vị bồ-tát có lòng đại bi đối với tất cả chúng sinh đến mức ngay cả trong giấc mơ cũng không ôm ấp sự oán giận đối với một ai; Như vậy, vị ấy tránh xa sự sát sanh.
Vì ngài luôn luôn cống hiến đời mình để giúp đỡ tha nhân, nên ngài xem việc xúc chạm của cải của người khác không hơn gì chạm phải một con rắn độc.
Trong kiếp sống làm Tỳ-kheo hay sa-môn của mình, ngài tránh xa việc hành dâm. Không những ngài tránh những quan hệ giao cấu với người nữ, mà ngài còn tránh cả bảy ràng buộc nhỏ của sự dâm dục (methuma samyoga), đó là:
1.        Thích thú trong việc để cho người nữ mơn trớn, xoa bóp và chà xát;
2.        Thích thú trong việc đùa giỡn và cười cợt với phụ nữ;
3.        Thích thú trong việc nhìn ngắm người nữ hay nhìn chằm chằm, mắt đối mắt, với người nữ;
4.        Thích thú trong việc nghe người nữ ở cách vách cười cợt, ca hát, khóc lóc;
5.        Thích thú trong việc hồi tưởng những dục lạc đã thọ hưởng với người nữ trong quá khứ;
6.        Thích thú trong việc nhìn người khác thọ hưởng các dục lạc và khao khát được thọ hưởng các dục lạc như vậy;
7.        Sống đời phạm hạnh với mong ước được tái sanh thiên giới.
Vì ngài tránh ngay cả những ràng buộc nhỏ của sự dâm dục như vậy, nên việc phạm giới thông dâm đối với ngài là hoàn toàn không thể có; ngài đã tránh tà hạnh này từ lúc mới bắt đầu phát nguyện bồ-tát.
Trong những kiếp sống làm gia chủ của ngài cũng vậy, ngay cả một ý nghĩ xấu về dâm dục với vợ người vị bồ-tát cũng không hề ấp ủ.
Khi nói năng, ngài tránh bốn loại tà ngữ và chỉ nói những lời chân thật, đó là nói những gì dẫn đến sự hoà hợp giữa bạn bè, những lời đáng yêu mến, và khi nói về Pháp (Dhamma) ngài chỉ nói đúng thời và đúng mức.
Tâm ngài thường không có những ý nghĩ tham lam và sân hận, luôn luôn nuôi dưỡng chánh kiến (những quan kiến không bị bóp méo, xuyên tạc), ngài có đầy đủ trí tuệ để hiểu rằng ngài là chủ nhân của nghiệp. Ngài có niềm tin và thiện ý đối với các bậc sa-môn, những người đang thực hành một cách chân chính.


 Vị Bồ Tát Giữ Giới Thực Hành (Tác Trì Giới) Như Thế Nào?

Vị bồ-tát luôn luôn tiếp rước các bậc thiện tri thức, chào đón họ với cử chỉ cung kính, nhã nhặn, và ân cần hầu hạ họ; ngài tự thân chăm sóc khi họ ốm đau và sẵn sàng những sự phục vụ cần thiết cho họ. Khi nghe xong một bài Pháp ngài luôn luôn bầy tỏ sự cảm kích và am hiểu của mình; nói lời tán dương giới đức của các bậc giới đức; biết kham nhẫn với những sai lầm của người khác và chỉ luôn luôn nhớ đến những điều tốt của họ để đáp trả lại họ; ngài thực sự hoan hỷ với những việc làm công đức của người khác và cống hiến những thiện nghiệp của mình cho sự Giác Ngộ Tối Thượng; ngài luôn luôn an trú không xao lãng việc thực hành các Thiện Pháp; nếu vô tình phạm một điều ác, ngài nhìn nhận nó đúng như thực, chứ không cố gắng che dấu nó, và thú tội ấy với các Pháp hữu (bạn cùng hành Pháp) của mình. Ngài tu tập các Pháp theo tuần tự và thăng tiến mỗi lúc một cao hơn trong những giai đoạn chứng ngộ.
Cũng vậy, ngài thiện xảo và cần mẫn phục vụ các chúng sinh trong những vấn đề phù hợp với họ và đem lại lợi ích cho họ; khi họ bị ốm đau, v.v… ngài cố gắng làm cho họ giảm nhẹ đến mức có thể. Khi những bất hạnh xảy ra đối với họ liên quan đến thân quyến, tài sản, sức khoẻ, giới hạnh và đức tin, ngài đem lại cho họ sự an ủi cần thiết bằng cách xua tan sầu khổ của họ; ngài khiển trách chính đáng những người cần phải được khiển trách, chỉ với mục đích duy nhất là đưa họ ra khỏi điều ác và an lập họ trong điều thiện; những người đáng được hỗ trợ, ngài đem sự hỗ trợ đến cho họ một cách chính đáng.
Khi nghe được những việc làm cao thượng của các vị bồ-tát trong quá khứ, những việc làm mà nhờ đó các vị đạt được sự hoàn thiện về các pháp Ba-la-mật, xả ly (cāga), sở hành (cariya), và được xem là khó thực hiện nhất, nhưng đóng góp cho sự an vui và hạnh phúc của các chúng sinh một cách rõ rệt nhất và tích cực nhất, bồ-tát liền hành theo không chút sợ hãi hay thối chí.
Ngài suy xét, ‘Giống như ta, tất cả chư đại bồ-tát trong quá khứ chỉ là những con người, nhưng nhờ thường xuyên tu tập trong giới, định và tuệ mà các ngài đạt đến sự Giác Ngộ Tối Thượng. Theo gương các vị đại bồ-tát thuở xưa ấy, ta cũng sẽ tu tập viên mãn giới, định và tuệ. Bằng cách này, sau khi hoàn tất tam học, cuối cùng ta sẽ đạt đến cùng một mục đích Chánh Đẳng Giác như các ngài.’
Như vậy, với sự chuyên cần liên tục có đức tin dẫn đầu, bồ-tát cam kết hoàn tất việc tu tập tam học - giới, định và tuệ.
Tương tự, bồ-tát không phô trương những việc làm công đức của mình, thay vào đó ngài luôn thú nhận những lầm lỗi mình đã phạm không che đậy hay giấu giếm; ngài có ít sự mong cầu, dễ dàng tri túc, thích đời độc cư, không chú ý đến những hỗn tạp xã hội; ngài chịu đựng gian khổ, không mong muốn vật này vật nọ cũng không để bị quan tâm đến một vật gì; ngài không kiêu căng tự phụ, không lăng mạ, không nói chuyện phóng túng, buông lung; ngài sống thầm lặng, an tịnh và thoát khỏi những phương tiện làm ăn bất chính như lừa đảo.
Vị bồ-tát được phú cho thân hành và khẩu hành đáng kính, và một nơi thích hợp để đi khất thực; ngài thấy sự nguy hiểm ngay cả trong những lỗi nhỏ nhặt và thọ trì giới luật thật nghiêm mật; ngài không có sự luyến ái dù chỉ chút ít đối với thân thể và mạng sống, ngoài việc vất bỏ nó ngài còn loại bỏ luôn cả những yếu tố làm ô nhiễm như tham, sân, ác ý, v.v… vốn sẽ làm cho giới hư hỏng; tâm ngài chỉ hướng đến sự chứng đắc Toàn Giác Trí và Niết-bàn (Nibbāna). Ngài cống hiến đời mình cho việc hành thiện không ngừng nghỉ.
Ngài không lấy làm tự mãn đối với những thành tựu nhỏ mà liên tục nỗ lực để đạt đến những chứng đắc cao hơn. Nhờ cố gắng như vậy, những chứng đắc của ngài trong thiền, v.v… hoàn toàn không bị thối giảm hay dừng lại mà càng lúc càng tăng trưởng và phát triển đến những giai đoạn cao hơn.
Vị bồ-tát giúp người mù đi đến nơi họ muốn đến hay hướng dẫn họ đi đúng đường. Ngài dùng tay ra dấu để thông tri với người câm và điếc để hiểu họ. Ngài đem ghế hay xe đến cho người tàn tật, hoặc cõng họ trên lưng đi bất cứ nơi đâu họ muốn đi.
Ngài cố gắng làm việc để giúp những người yếu đức tin tăng thêm đức tin, người lười nhác tăng thêm nghị lực, người dễ duôi, không chánh niệm phát triển chánh niệm, người dao động, bất an phát triển định tâm và người si mê có thể phát triển trí tuệ; ngài cố gắng để giúp những người gặp khó khăn với những triền cái có thể xua tan những triền cái và người bị bức bách với những dục tầm, sân tầm và hại tầm có thể loại trừ những pháp bức bách ấy.
Đối với những người trước đây đã từng giúp ngài, ngài bầy tỏ lòng tri ân, chào hỏi họ bằng những lời thân ái, thù đáp lại họ những lợi ích tương tự hoặc thậm chí lớn hơn những gì họ đã ban tặng cho ngài, lúc họ gặp bất hạnh ngài phục vụ họ như một người bạn tốt.
Hiểu được tính khí tự nhiên của mỗi người, ngài giúp họ thoát khỏi những điều bất thiện và an lập họ trong những điều thiện; ngài làm việc cùng với họ (đồng sự) để đáp ứng những nhu cầu và ước muốn của họ. Những gì muốn nói ở đây là ngài tìm cách cùng làm việc và làm bạn với họ để giúp họ thoát khỏi điều ác và an lập họ trong nếp sống giới hạnh bằng cách tặng quà (bố thí) những người thích được tặng quà, nói lời thân ái (ái ngữ) đối với người thích lời thân ái, biểu lộ một cuộc sống hữu ích với những người tán thành một cuộc sống hữu ích, và bằng cách đối xử công bằng với những người muốn được đối xử công bằng.
Lại nữa, ngay cả với ước muốn phục vụ sở thích của họ, bồ-tát cũng không làm tổn thương đến những người khác hay gây bất hoà với họ, và cũng không xỉ nhục hay làm cho họ phải ray rức, ăn năn. Ngài không khinh khi người khác hay bới lông tìm vết họ; ngài không tự đặt mình vào địa vị cao hơn trong quan hệ với những người đối xử với ngài không có tâm kiêu ngạo mà hoàn toàn khiêm tốn.
Ngài không tự tách rời hoàn toàn khỏi mọi người, nhưng cũng tránh không thân mật hay giao du thái quá với họ không đúng lúc. Ngài chỉ giao du với những người đáng giao du và giao du đúng nơi đúng lúc. Ngài không nói xấu người khác trước mặt bè bạn của họ hoặc tán dương những người mà ngài không hiểu rõ về họ. Ngài không kết bạn thân thiết với những người không phù hợp để hoà nhập.
Ngài không từ chối những lời mời thích hợp, nhưng cũng không cho phép để bị đòi hỏi thái quá, và cũng không nhận nhiều hơn những gì ngài cần thiết. Ngài đem lại niềm hân hoan và khích lệ cho những người có đức tin bằng cách thuyết pháp nói về phước báu của đức tin. Cũng vậy, ngài đem lại niềm hân hoan và khích lệ cho những người có đầy đủ giới đức, những người đa văn, những người có lòng quảng đại và những người có trí tuệ bằng cách thuyết pháp nói về phước báu của những phẩm chất ấy.
Nếu trong một kiếp nào đó vị bồ-tát thành tựu được những thiền chứng và năng lực thần thông, ngài có thể vận dụng năng lực này để khơi dậy nỗi kinh cảm nơi những người đang dễ duôi trong việc làm điều thiện. Bằng cách cho họ thấy những điều khủng khiếp ở một mức độ nào đó trong các cõi khổ (địa ngục, ngạ quỷ), ngài giúp những người không có đức tin và các giới đức khác an lập trong đức tin v.v…và cho họ tiếp cận Phật Pháp. Đối với những người đã có đầy đủ đức tin, v.v… ngài giúp họ đạt được sự thành thục trong những đức ấy.
Theo cách này, giới thực hành (tác trì giới) của vị bồ-tát như một ‘trận lụt’ của vô lượng công đức ngày càng trở nên lớn hơn theo mỗi kiếp sống.
CỖ XE ĐẠI GIÁC
(MAHĀBODHIYĀNA)
Tôn Giả Āciṇṇa, Dhammācariya – Pháp Sư
Aggamahākammaṭṭhānācariya – Đại Trưởng Lão Thiền Sư
Trưởng Ban Thiền Sư và Cố Vấn Thiền
Trung Tâm Rừng Thiền Phật Học Quốc Tế Pa-Auk, Myanmar
Tỳ kheo Pháp Thông dịch thuật