Đức Phật: con người của mọi
thời đại
Gần 25 thế kỷ trôi qua, Đức Phật:
một con người có thật trong lịch sử nhân loại - vẫn còn để lại những dấu ấn đầy
tính nhân bản với những lời dạy của Ngài làm cho con người có nhiều suy tư về vị
giáo chủ đã tuyên bố: "Con người và chỉ có con người mới có thể thực hiện
những hoài bão lý tưởng hưóng đến Phật quả". Chúng ta có thể gọi Đức Phật
là một con người tuyệt vời trong nhân tính và cũng chỉ có Đức Phật là vị giáo
chủ duy nhất trên hành tinh chúng ta khẳng định vị trí của con người: "Các
Người là nơi nương tựa của chính mình, là hòn đảo chứ không còn nơi nương tựa
nào khác". Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy
sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong
toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật trong hơn 45 năm hoằng pháp lợi sanh.
Hôm nay chúng ta nhìn lại nền
giáo lý của Đức Phật trong hoàn cảnh các dân tộc trên thế giới bước vào thiên
niên kỷ mới, mọi người không phân biệt Âu, Á, màu da, chủng tộc đều mong muốn
có một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ ; con người không còn khổ đau bệnh tật
và đói nghèo. Điều này không phải của riêng ai mà của cả toàn nhân loại trên
hành tinh này đều hướng về con đường lý tưởng đó. Trong dòng chủ lưu đó con người
là chủ nhân ông quyết định và điều này lại khẳng định một lần nữa vai trò của nền
giáo lý Đức Phật không phải là vô ích, nếu không muốn nói là giáo lý đó có những
tư tưởng tiến bộ để con người tự xây dựng một xã hội mà con người đang đi tìm
giải pháp.
Đức Bổn Sư Thích Ca tên là
Sidhartha họ Gotama, ra đời cách đây hơn 2.500 năm tại Bắc Ấn Độ vào TK VI trước
Tây lịch. Thân phụ là Suddhodana (Tịnh Phạn) cai trị vương quốc của dân tộc
Kàkyas (Nepal ngày ngay), mẹ là Hoàng hậu Maya.Theo tục lệ lúc bấy giờ Ngài kết
hôn với Công chúaYasodharà(Da-du-đà-la). Là một Thái tử đương triều sống trong
cung điện đầy đủ tất cả những vật chất xa hoa, nhưng khi va chạm với đời sống
bình thường thực tại, Ngài nhận thấy khổ đau của kiếp người, Ngài quyết định bỏ
lại sau lưng uy quyền và địa vị để tìm giải pháp cứu mình và cứu người.
Trong 6 năm làm một nhà khổ hạnh,
Đức Phật đã đi khắp thung lũng sông Hằng tìm học những vị thầy nổi tiếng lúc bấy
giờ, nhưng Ngài thất vọng vì họ không chỉ dạy được gì mà Ngài muốn đến. Đức Phật
đã từ bỏ tất cả những phương pháp mà Ngài đã học, đi theo con đường riêng của
Ngài. Và một hôm Ngài phát đại nguyện dưới cội cây bồ đề trên bờ sông Neranjarà
(Ni Liên Thiền) tại Buddha-Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) xứ Bihar ngày nay: " Dù
thân ta có tan thịt ta có nát, nếu không tìm ra đạo, ta nguyện không rời chổ
ngôì nầy".
Từ nơi đây Ngài thực sự đạt được
đỉnh cao của trí tuệ, thành bậc Giác ngộ, chuyển bánh xe Chánh pháp đem lại lợi
lạc cho con người với những phương pháp mà Ngài đã tìm ra được ; và cũng từ đó
những phương pháp mà Đức Phật đưa ra như là những phương thuốc trị những căn bệnh
mà loài người đang gặp phải : "Hỡi các Tỳ kheo, có hai thứ bệnh. Hai bệnh ấy
là gì ? Bệnh thể xác và bệnh tinh thần. Có những người hưởng sự vô bệnh và thể
xác trong một năm, hai năm...cả đến trong một trăm năm hay hơn nữa. Nhưng này
các Tỳ kheo, hiếm thay trong thế gian này là những người hưởng được sự vô bệnh
về tinh thần, ngay cả trong chốc lát, trừ phi những người thoát khỏi sự xấu xa
ô uế" (chỉ cho những vị đắc A-la-hán).
Hình ảnh giáo lý và nhân cách của
Ngài vẫn là bức thông điệp nhân bản muôn đời gởi đến cho nhân loại. Những lời dạy
của Đức Phật đã thành những điệp khúc bất tuyệt vượt ra ngoài không gian và thời
gian, những lời dạy đó nhằm vào tinh thần giải thoát cho con người thoát khỏi
khổ đau bởi những trói buộc của phiền não và vạch ra con đường để cho những ai
muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của kiếp nhân sinh. Có người cho rằng giáo lý của
Phật dạy quá cao siêu khó có thể ứng dụng trong đời sống hàng ngày trong nền
phát triển hôm nay ; vì nếu muốn trở thành những người Phật tử phải từ bỏ việc
này, ngăn ngừa việc khác trong khi đời sống bình thường của con người ngày nay
thực hiện vì "cơm, áo, gạo , tiền" để mưu sinh cho gia đình và cho
chính bản thân họ. Đó là một quan niệm sai lầm về giáo lý Đức Phật. Thông thường
phần đông thường đi đến kết luận một cách vội vã, chủ quan, chỉ hiểu được một
khía cạnh thiên lệch sau khi đọc một quyển kinh hay một cuốn sách Phật của một
tác giả nào đó mà lại không hiểu hết những giáo lý cốt lõi của Đức Phật.
Điều
này trong thời điểm này hay trong những thời điểm khác, ở Việt Nam hay một số
quốc gia trên thế giới, đã từng có những quan niệm sai lầm của một số người khi
đặt bút viết về giáo lý của Phật hay về những vấn đề liên quan đến Phật học, đó
là chưa kể những người cố tình bóp méo hay gán ép cho Đức Phật và giáo lý của
Ngài, với ý đồ nào đó (?). Ở đây chúng ta không phải biện minh cho những kiến
giải hơn thua phải quấy của những người con Phật, mà chúng ta xác định tinh thần
Phật dạy như là quan niệm sống thực nghiệm giúp con người trong thời đại của
Ngài và ngay trong thời điểm hôm nay và mai sau. Giáo lý đó là một chân lý vượt
ra ngoài phạm trù của thời gian và cả không gian, và những lời dạy của Đức Phật
thực sự có ích cho con người. Nền giáo lý của Đức Phật không phải chỉ dành
riêng cho người xuất gia hay tại gia tu theo Phật, mà đó là của mọi người muốn ứng
dụng nó vào đời sống tâm linh, mà không có sự phân biệt quy y hay chưa quy y
theo Phật .
Tất cả mọi người không phải ai
cũng bỏ cuộc đời, đi vào chùa hay tu viện xa lánh cuộc đời, ẩn dật chốn nào đó
của núi rừng, am cốc. Đạo Phật dù có thuần khiết cao cả đến đâu cũng sẽ trở
thành vô dụng đối với mọi người vì không "đại chúng hóa" vì họ không
thể áp dụng đựơc trong đời sống hàng ngày. Trái lại khi mọi người hiểu đúng
tinh thần Phật dạy, xem như là một triết lý sống, đem áp dụng vào cuộc đời mà
không phải xa lánh cuộc đời thì đó mới thực sự là một tôn giáo có lợi ích thiết
thực. Như vậy rõ ràng Đức Phật và giáo lý của Ngài không bao giờ khuôn biệt
trong một mô thức bắt buộc nào mà chỉ khuyên mọi người nên áp dụng tu tập thực
hành Pháp trong điều kiện và hoàn cảnh mà mình đang sống, không khuyến khích
con người chạy đi tìm cầu, điều kiện khác mà con người chưa có thể thực hiện được.
Trong kinh Phật có nhiều câu hỏi của cư sĩ Vacchagotta được đặt ra: "Bạch
Đức Thế Tôn, có người nam và nữ nào đệ tử của Phật sống đời sống thế tục thực
hành giáo lý của Ngài mà có hiệu quả, mà đạt được những trạng thái tâm linh cao
siêu không ?". Đức Phật đã khẳng định không phải 100 hay 500 mà còn nhiều
hơn thế nửa. Qua đó cho chúng ta một quan niệm về Đức Phật và giáo lý của Ngài.
Ở thời đại ngày nay khi kinh tế
thị trường như là một yếu tính của thời đại và nó được xem như một nhu cầu phát
triển xã hội loài người, vậy giáo lý của Phật dạy có ảnh hưởng gì không trong sự
tu tập? Chúng ta hãy xem một đoạn kinh Đức Phật có đề cập đến nền kinh tế :
"Một hôm Đức Phật bảo ông Cấp Cô Độc - một thương gia danh tiếng:
"Này cư sĩ, sống thường nhật có 4 thứ hạnh phúc:
1/ Sở hữu lạc : sự thọ hưởng bảo
đảm về kinh tế hay tài sản kiếm được bằng phương tiện chính đáng.
2/ Thọ dụng lạc : Tiêu dùng tài
sản đó một cách rộng rãi, cho chính mình, cho gia đình bà con, bè bạn, trong những
việc công đức.
3/ Vô trái lạc : Không bị nợ nần
đeo bám.
4/ Vô tội lạc : Sống một đời sống
trong sạch, không phạm những điều ác trong công việc mưu sinh ngoài xã hội".
Qua những điều nêu trên cho
chúng ta thấy Đức Phật đã có những cái nhìn thấu đáo về nền kinh tế trong thời
kỳ của Ngài khi dạy một cư sĩ sống làm sao để có hạnh phúc, Ngài không cho rằng
chỉ thuần có đời sống tinh thần; mà phải làm sao quân bình giữa đời sống vật chất
và tinh thần . Một mặt Phật giáo khuyến khích con người cần có sự tiến bộ phát
triển về vật chất, mặt khác Ngài cũng nhấn mạnh đến sự phát triển về đạo đức và
tâm linh để có một xã hội hoà bình an lạc.
Ngày nay con người sống trong hận
thù, sợ hãi lo âu và khủng hoảng, nghi ngờ đố kỵ nhau một cách căng thẳng. Nền
công nghệ phát triển một cách chóng cả mặt mày. Đứng trước sự sợ hãi do chính
mình tạo ra, bao nhiêu thiên tai thảm họa đang đè nặng lên vai con người trong
thiên niên kỷ mới phải khắc phục; thông điệp của Đức Phật dù cách đây hơn 25 thế
kỷ, nhưng khi nhìn vô số lời dạy còn lưu lại cho đến hôm nay, mọi người con Phật
đều có thể xem như là kim chỉ nam trong việc xây dựng đời sống cộng đồng. Nơi
tiềm tàng trong nền giáo lý và nhân cách của Phật mọi người có thể rút ra một
bài học ứng xử giúp con người tìm về chính mình, làm chủ vận mệnh tương lai do
mình tạo ra. Đó là tình thương, khoan hồng, rộng lượng , thông cảm, tôn trọng đối
với mọi sự sống hãy vứt bỏ đi lòng ích kỷ, hận thù và bạo động...
Nhân loại
đang sống trong bản lề của một thiên niên kỷ mới cũng sống và mong ước thế giới
không còn hận thù khổ đau mà chúng ta hằng mong muốn : "Tâm tịnh quốc độ tịnh".
Trước khi nhập Niết Bàn Đức Phật đã ân cần tuyên bố: "Bất luận Chân Lý nào
mà Như Lai đã truyền dạy, các người hãy thực hành một cách khéo léo, trao dồi
phát triển đầy đủ, để đời sống thiêng liêng được duy trì trường tồn vĩnh cửu, vì
tình thương chúng sanh, vì sự tốt đẹp và hạnh phúc của nhiều người...". Những
lời nầy là thông điệp muôn đời của tình thương yêu nhân loại gởi đến cho toàn
thể mọi người khắp hành tinh đang thực hiện lời dạy của Ngài, hãy vì hạnh phúc
của nhiều người, hãy xây dựng hạnh phúc cho mình cho người.