Trước hết chuyên tâm vào
từng cảm nhận của giác quan rồi từng cảm xúc tốt xấu trong mỗi hơi thở. Hãy dốc
hết khả năng tập trung vào những nơi mà hơi thở ra vào được biểu hiện, chẳng
hạn ở mũi hay vùng bụng, để có thể thấy rõ mọi cơ cấu vận động cùng những gì có
mối tương quan hữu cơ với chúng, một cách trong sáng và tỉnh thức.
Hãy thư thả theo dõi hơi
thở ra vào và nếu lúc nào đó chợt thấy chúng bất ngờ vắng mặt (không vào ra rõ
rệt nữa) thì cứ bình tâm chú ý vàonhững điểm vừa nói trên: mũi, vùng bụng, hoặc
phần đầu gối chạm đất hay ở đôi môi đang khép rồi tiếp tục ghi nhận những gì
xảy ra từ đó. Trong trường hợp hơi thở vắng mặt lâu hơn thì ta cũng cứ thế mà
chờ đợi cho tới khi nó có trở lại (tức lúc ghi nhận được). Bắt gặp nó rồi, ta
bình thản nhìn ngắm như không có gì xảy ra.
Ðiều cần nhất là trong
lúc thiền định về hơi thở, ta phải biết vô can trong sự mất còn của nó. Ðiều
này có nghĩa là cứ để mặc nó tự đến và đi theo nhịp sinh diễn tự nhiên, rồi
khách quan nhìn ngắm mà không hề can dự vào bất cứ một nỗ lực nào mang tính
điều hành. Hơi thở luôn bất thường, lúc mau lúc chậm, khi nặng nề, khi nhẹ
nhàng... Những sai biệt đó không có ý nghĩa gì hết, ta chỉ việc nhìn ngắm mà vô
phân biệt.
Bạn đang trong giờ thiền
định và một âm thanh nào đó thình lình vọng tới ư? Hãy đơn giản ghi nhận rằng
"đang nghe". Tỉnh thức trong cảm nghiệm về thực tại âm thanh đó thôi,
đừng kéo theo một giây mơ rể má nào về điểm xuất phát của âm thanh đó. Bởi nếu
không như vậy, nội tâm bạn sẽ là một mớ bòng bong rất khó dàn xếp. Hãy cảnh
giác và ghi nhận âm thanh đó chỉ là một tiếng động. Ở đây ta phải đặc biệt đề
phòng những khái niệm tập quán "Còi xe, tiếng người, tiếng gió... ".
Ở đây chúng ta chỉ cần tới một cảm nghiệm trực quan: nghe là nghe, tiếng động
là tiếng động.
Tự dùng trí tuệ khu biệt
được hai thái độ cảm nhận thực tại này rồi, ta tiếp tục tỉnh thức nhìn ngắm
chúng cho đến khi chúng không còn sức ảnh hưởng nữa, ta quay lại với hơi thở
của mình.
Thường thì các tạp âm
chỉ có thể nhiễu động một trình độ tỉnh thức non kém. Chỉ cần một khả năng nội
tỉnh nhất định nào đó, chúng sẽ không đủ chi phối cảm nghiệm của ta về thực tại
hơi thở. Nhờ vậy ta bớt nhọc công và đỡ mất thời gian. Chánh niệm ở đây vô cùng
cần thiết: nó trưởng dưỡng sự tĩnh thức và định tâm. Ðể khắc chế một phút giây
quên mình vì một phóng tâm nào đó, ta chỉ việc nhận diện nó "phóng tán
ư?", mọi sự sẽ ổn ngay. Và hơi thở tiếp tục là một thực tại cảm nghiệm.
Những quấy rầy phiền phức cho công phu thiền định của ta không chỉ đi đến từ
bên ngoài, mà còn là những réo gọi đáng ngại từ trong nội thân và biện pháp xử
lý chúng cũng giống như ở trường hợp giải quyết các nhiễu động ngoại lai. Nghĩa
là hành giả vẫn cứ tỉnh thức, khách quan nhìn ngắm chúng một cách đơn giản:
trực cảm tất cả thực tại hiện hữu theo từng đơn tử riêng lẻ. Nó ra sao thì chỉ
ghi nhận như vậy, không tô lục chuốt hồng hay bôi tro trét trấu nó bằng một
thành kiến tốt xấu nào hết.
Thật khó mà tìm được một
chữ khả dĩ lý tưởng để định nghĩa danh từ "cảm nghiệm". Nhưng chẳng
sao hết, ta cứ tạm thời định danh, gọi tên cho nó là cái biết của cảm giác,
nhưng ở đây là một cảm giác hoàn toàn khách quan.
Thái độ tỉnh thức hay
tỉnh giác cực kỳ quan trọng. Nó giúp ta trực cảm chính xác thực tại, ở đây chỉ
cho các đối tượng sở tri tâm vật lý, để có thể tri nhận trọn vẹn những xúc cảm
đối với những gì xảy đến mà mình nhận diện được. Chẳng hạn trong cơn đau lưng
hay nhức gối, ta có thể thấy như ở bộ phận thân thể đó như bị đốt nóng. Hãy chỉ
ghi nhận các cảm giác nóng đó thôi, mà vứt hết đi những "lưng, gối của
tôi". Bạn nhìn nhắm nó một cách tinh tường và đôi khi cảm giác đó cũng
được chấm dứt.
Khi mọi nhiễu động qua
rồi, ta lập tức trở lại với đề mục hơi thở. Hãy giữ quân bình, thăng bằng nội
tâm với một sự thư thái, nhẹ nhàng, một thái độ giao hòa hết mình trong từng
phút giây hiện tại thực hữu, tỉnh thức và tinh xác.
Nãy giờ là những cảnh
báo về các nhiễu động thiền định từ ngoại giới sang nội thân sinh lý. Ðến đây
chúng ta lại còn phải chú ý những nhiễu động ma chướng ngay trong chính nội
tâm.
Người hành giả thiền
định nên luôn quan tâm đến những phản ứng nội tại vốn không cần thiết, thậm chí
rất nguy hiểm trong lòng mình, đó là những ghét thương, bận bịu, sợ hãi... và
như đã nói hàng trăm lần ở các chương khác, ta cứ nhìn ngắm chúng một cách tỉnh
thức, trung thực. Kể cả đối với những niềm vui mà mình muốn giữ lại mãi cũng
thế.
Hãy nhớ rằng đừng bao
giờ để tâm đi tìm một đối tượng sở tri nào ngoài ra hơi thở nếu ta đang lấy hơi
thở làm thực tại để tri nhận. Chỉ khi nào chúng tự đến thì ta mới nhìn ngắm, dĩ
nhiên vẫn bằng sự cảm nghiệm giống như đối với hơi thở. Ðại khái, ta dành hết
thời gian và công phu cho hai tiếng hiện tại. Bất cứ một suy nghĩ nào vừa có
mặt cũng phải được ghi nhận khách quan hết. Ðối mục với một bức tranh, hoặc
tình cờ nghe được một tiếng động, hãy đơn giản cảm nghiệm bằng thực tại "thấy"
hay "nghe" mà thôi. Cứ thế mà thiền định, đừng đợi chờ nghe ngóng bất
cứ một đối tượng ngoại tại nào cả. Nhiều khi có nhiều nhiễu động ngoại giới gần
như đến cùng một lúc, thì khi đó ta hãy cố gắng nhìn thẳng vào hơi thở, xem nó
như một chiếc mỏ neo cho chiếc thuyền nội tâm của mình giữa những ba đào ngoại
cảnh. Sở dĩ hơi thở thường được chọn làm đề mục tiên khởi cho thiền định vì nó
thường trực có mặt trong mọi không gian, thời gian và tất cả tình huống.
Nhắm
vào nó cũng có nghĩa là ta luôn có dịp cảm nghiệm thực tại, bởi nó có lúc nào
lại không gắn bó với các vận động tâm sinh lý khác, nếu ta chịu để ý nhìn ngắm.
Chỉ cần ghi nhận được hơi thở là ta đã có đủ cơ hội để cảm nghiệm mọi thực tại
xảy đến cho mình trong từng hơi thở.
Có thể nói rằng bất cứ một
đối tượng tâm vật lý nào xảy đến một cách nổi bật trong phạm vi không gian mà
ta có thể cảm nghiệm được, đều khả dĩ trở thành điểm nhìn ngắm cho ta. Nếu ta
thiếu tỉnh thức thì chúng ta rất có thể sẽ thành ra một màng lọc trung gian và
vô thức cho những cảm nghiệm của ta về thực tại xuyên qua màng lọc xúc cảm đặc
biệt này. Rơi vào tình huống này, coi như noi tâm chúng ta tự bị tấn công,
khuynh đảo, phân hóa qua khái niệm buồn vui tiêu cực, những nóng giận và sợ
hãi, đầu tư và thất vọng... Trong khi chỉ với một sự tỉnh thức và tri nhận đúng
mức thì chúng ta có thể thấu thị tất cả thực tại một cách an nhiên, độc lập tự
tại. Bởi tất cả những chuỗi tư tưởng và cảm giác luôn vô thường trong từng chớp
mắt. Ở chúng không hề có một cái tôi, của tôi. Chúng tự đến rồi tự đi. Ta thẩm
thấu chúng rồi quay về với hơi thở hoặc các xúc cảm đương tại.
Ngoài ra, hành giả nên
luôn cảnh trọng đối với năm triền cái, tức những trở lực tinh thần có phương
hại cho thiền định: tham dục, sân hận, hôn thụy (dã dượi, buồn ngủ), phóng dật
và nghi hoặc. Chúng luôn tiềm tàng, sinh sôi và sẳn sàng chi phối nội tâm chúng
ta. Hãy nổ lực nhận diện những trở lực này, càng tích cực và mau chóng thì càng
tốt, để kìm hãm sức tác động và sự tồn tại của chúng.
Trong công phu chú niệm
để tri nhận các thực tại tâm vật lý, thái độ tỉnh thức và cách nhìn tinh tế
chiếm một vị trí rất quan trọng với ý nghĩa giúp ta tự tại và cẩn trọng nhìn
ngắm mọi sự. Thái độ tỉnh thức có vai trò của một cái cửa để mở vào thế giới
nội quán về từng vận động của nội tâm. Tỉnh thức ở đây còn một tên gọi khác
nữa, đó là sự chuyên tâm thực hiện mọi vận hành của thực tại một cách khít khao
gắn bó.
Xác thân của chúng ta
thực ra không thể vận động nếu không có được những trợ lực nhất định nào đó.
Cho nên trước khi bắt đầu có một vận động lớn nhỏ nào của cơ thể, người hành
giả phải nhanh chóng kịp thời tri nhận những cơ năng nào thúc đẩy chúng. Bởi
trước những vận động sinh lý đó đều luôn có một sự chuẩn bị của tư tưởng, mà sự
chuẩn bị này rất vi tế không dễ gì nắm bắt được để ta có thể nhìn ngắm chúng
một cách rõ ràng và trọn vẹn. Trước hết sự chuyên tâm ở đây có thể tạm thời
ngưng đọng, trong một phút giây thôi, một thời gian vừa đủ để ta biết mình muốn
làm gì. Sự chuyên tâm đó còn có ý nghĩa là một kiểu thư giản nghỉ ngơi để giúp
cho công phu nhìn ngắm thực tại trở nên hữu hiệu hơn.
Cái vấn đề quan trọng ở
đây chính là việc khởi sự tỉnh thức đối với mỗi giây phút khởi sự tỉnh thức đối
với mỗi giây phút chuyên tâm, tức là sự tỉnh thức đối với chính sự tỉnh thức.
Ðiều này có nhiều lý do. Thứ nhất sự tỉnh thức luôn có nhiệm vụ phơi mở mối
tương quan nhân quả giữa nội tâm với tâm thân sinh lý của chúng ta, mà qui luật
nhân quả luôn là một qui luật căn bản để người hành giả theo đó mà tiến đạt lên
một trình độ trí tuệ sâu sắc.
Những vận động của tâm lý xem ra có vẻ rối rắm,
hỗn độn, nhưng thật ra chúng luôn sinh diễn một cách rất hệ thống, mà một trong
những qui luật điều hành sự vận động đó chính là qui luật nhân quả, tức mối
liên quan bất biến giữa lực tác động và hệ quả phản ứng. Sở hữu được khả năng
nội quán này, coi như ta đã có thể nhìn ngắm tận tường các hình thái hoạt động
của thực tại. Bởi vì có sự trợ lực của một chuẩn bị tâm lý, tấm thân này mới có
thể vận động, mà sự chuẩn bị đó chính là nhân tác động, còn những vận động kia lại
là hệ quả phản ứng. Càng đối diện thực tại bằng thái độ cảm nghiệm đó của tự
thân thì mọi sự sẽ càng hiển hiện rõ ràng hơn nhiều. Công phu ghi nhận khuynh
hướng vận động của nội tâm còn giúp ta cái nhìn thấu trị bản chất vô ngã trong
toàn bộ qui trình sinh diễn của thân tâm. Ðiều này rất quan trọng: bởi nhiều
khi đáng chuyên tâm ngắm nhìn các thực tại, bất luận thuộc tâm vật lý nội tại
hay ngoại giới, chúng ta vừa xem chúng là những bọt nước phù du mà cũng vừa âm
thầm nuôi dưỡng một ảo tượng về cái tôi, một chủ thể điều hành cái thực tại .
Cho nên một yêu cầu tối
trọng ở đây là chúng ta phải luôn thấy được cái bất khả của ý niệm Tôi, Của
Tôi ngay trên chính những thực tại mà chúng vẫn luôn luôn sanh diệt
như chúng ta cũng đã nhìn thấy, để vất bỏ đi những ý hướng đồng hóa hợp nhất
bản thân mình với chúng. Ðại khái người hành giả phải có bổn phận từng bước
nâng cao trình độ cảm nghiệm của mình đối với toàn bộ những qui trình vận động,
hiện hữu hết sức phức tạp của các thực tại bằng một trí tuệ sâu sắc về tính vô
nghĩa của chúng.
Trong công phu thiền
định, đặc biệt ở đây là đang nói về vấn đề hơi thở, người hành giả phải luôn
biết vô tư trong từng phút giây: khách quan nhìn ngắm từng hơi thở vốn tự đến,
tự đi. Ðối với hơi thở nói riêng và tất cả những vận động tâm sinh lý nói
chung, ta tuyệt đối không nên can dự vào chúng bằng bất cứ một nổ lực lớn nhỏ
nào. Cứ sống hết mình với từng phút giây hiện tại bằng một sự trực diện cẩn
trọng và tinh xác đối với từng hơi thở cùng những gì thực sự có mối tương quan
mang tính thực tại với nó. Ðừng bao giờ đặt thành vấn đề cái hình thù thể cách,
tư thức, qui mô... của tất cả thực tại một cách vô ích. Bởi trong thiền định
hoàn toàn không cần đến một cái danh mục nào cả về các thực tại. Chúng ta chỉ
việc phơi mở nội tâm rồi thận trọng nhìn ngắm hiện tại là thực tại, nó là nó.
Cứ thế, xem ra những gì phải làm của một hành giả tu thiền hơi thở, kể cả một
thiền sinh chân ướt chân ráo, cũng đâu có chi là nhiều quá khó khăn.
Ở đây tôi muốn nhắc lại
một điều là nếu như trong khi đang theo dõi hơi thở mà đột nhiên có vẻ biến mất
thì người hành giả vẫn cứ tiếp tục giữ yên chánh niệm và vào lúc này, thì hướng
tâm chú ý đến một điểm xúc giác khác trên thân mình rồi cũng ghi nhận nó như là
một thực tại: "Ðụng! Ðụng!". Hoặc những khi có một đối tượng tâm vật
lý nào đó xảy đến với một sức ảnh hưởng và réo gọi chánh niệm của ta mạnh hơn
thực tại hơi thở lúc đó thì ta cứ tự nhiên đón nhận chúng, vẫn bằng một trí tuệ
tỉnh thức như đối với hơi thở. Nghĩa là vẫn nhìn ngắm chúng một cách tinh tường
chi tiết.
Phần thưởng quí giá cho
người hành giả là khi nào trình độ tỉnh thức của ta càng vững mạnh bao nhiêu
thì thực tại nó cũng lộ diện rõ ràng bấy nhiêu. Hãy ghi nhận thực tại bằng thái
độ đón chào nghiêm túc: nhìn ngắm chúng thật kỹ lưỡng, khách quan và đơn giản.
Nãy giờ là những thực tại ngoại lai, giàn xếp chúng xong, ta nhớ đừng bỏ quên
hơi thở, một nội tại căn bản mà mình đã chọn .
Nói chung, người hành
giả phải luôn biết tỉnh thức, cảnh phòng đối với tất cả thực tại đến từ mọi
giác quan rồi thu gọn tất cả chúng lại vào một phút giây hiện tại: chúng ra sao
thì thấy như vậy và trước sau gì ta cũng phải nhớ quay về với đề mục hơi thở
vào bất cứ phút giây nào mình có thể quay về.
Hành giả cần đặc biệt
lưu tâm với những đối tượng tâm lý. Chúng là những hình thái ý thức cực kỳ tế
vi không dễ gì nhận diện một cách rõ ràng. Cho nên, nếu không thể nhìn ngắm
chúng một cách trọn vẹn như đối với đối tượng sinh vật lý thì trong trường hợp
này, ta chỉ việc chuyên tâm trực diện vào một vấn đề chính yếu thôi, đó là sự
đến và đi của chúng.
Những tâm thái mang tính
cách nhiễu động đó, rồi cũng sẽ qua đi, để ta có thể trở lại với đề chính là
hơi thở. Bất cứ khi nào tự nhận ra là nội tâm mình đang bị phóng tán, loạn động
thì ta cứ việc dồn hết tâm lực để chú niệm vào hơi thở với một sự cảnh giác
thường trực đối với những ngoại cảnh vốn luôn sẳn sàng quấy rầy chánh niệm của
chúng ta. Chúng xuất hiện thì ta ghi nhận đã đành, mà ngay khi cả chúng biến
mất ta cũng phải biết tới. Nói chung, điều nhắn gởi sau cùng của tôi cho các
hành giả là phải từng phút tỉnh thức, cảnh phòng đối với từng thực tại trong
mỗi phút giây.