Tương truyền rằng ngay
sau khi rời gốc bồ đề, ra đi lúc mới vừa thành Phật, Ðức thế tôn đã gặp trên
đường một du sĩ ngoại giáo. Bị cuốn hút bởi phong thái siêu phàm cùng vẻ đẹp
của các hảo tướng nơi Ngài, người du sĩ dừng lại nhìn ngắm Ngài, buột miệng hỏi
:
- Thưa, có phải Ngài là
một siêu nhân hay một thiên thần không ạ?
- Không phải thế đâu du
sĩ ạ. Ðức Phật trả lời.
- Hay Ngài là một phương
sĩ? Ông ta tiếp tục hỏi.
- Càng không phải vậy
đâu, ông du sĩ! Ðức Phật vẫn từ tốn trả lời.
- Vậy Ngài cũng chỉ là
một thường nhân như mọi người chứ ạ?
- Cũng không hẳn là vậy!
-Thế Ngài là ai mới được
chứ? Không là hạng nào hết, thật không hiểu nổi!
- Ta là một vị Phật, một
con người tình thức.
Phần còn lại của giai
thoại về cuộc gặp gỡ này của Ðức Phật với người du sĩ tạm thời dừng lại ở đây.
Bây giờ chúng ta hãy cùng đi vào một vấn đề mà nội dung thật ra đã được nói tới
trong đoạn văn vừa rồi.
Phật, hồng danh này của
Thế Tôn vốn xuất phát từ chữ Buddha mà ngữ nghĩa từ nguyên chỉ
đơn giản là "người tỉnh thức". Và tinh thần tỉnh thức chính là một
kinh nghiệm tâm linh cốt lõi, tối trọng của giáo lý thiền quán (Vipassanà), đạo
lộ duy nhất đưa đến giải thoát. Thiền quán là pháp môn mở ra cho ta một cái
nhìn tinh tường thấu suốt về toàn bộ thực tại hiện hữu của thân tâm và thế giới
quanh mình, đồng thời trưởng dưỡng, làm bừng dậy một khả năng trí tuệ cùng một
sự đồng cảm sâu sắc để đối diện mọi sự.
Giáo lý tuyệt vời này thực ra đã được
chính Ðức Phật tuyên thuyết từ hơn 25 thế kỷ trước và đã được truyền thừa trung
thực liên tục qua dòng Phật giáo truyền thống Theravàda (hay Nam phương, Nam
truyền, Nam tông Phật giáo) mà địa bàn tồn tại từ bấy lâu nay là khu vực Nam Á
Châu. Tuy nhiên thiền quán tuyệt đối không hề chỉ là giáo lý tu hành cho riêng
đất trời Châu Á mà ngược lại, là một Ðạo Sống cho tất cả những
tâm hồn có khả năng tự tỉnh, có được ước vọng hướng tới chân lý và tự do.