Trong kinh điển Phật
giáo Nguyên thủy vẫn thường nhấn mạnh đến những trở lực có nguy cơ phương hại
cho hành trình tu tập mà gần như không một ai chẳng gặp phải. Ðức Phật dạy rằng
một người có bản lĩnh điều phục được nội tâm của chính mình thì xét về giá trị
tinh thần, còn vĩ đại hơn cả một viên dũng tướng bách chiến bách thắng ngoài
chiến trường. Người tu hành, đặc biệt là các hành giả thiền định, việc đối đầu
với các trở lực tinh thần (thường được kể có 5) là cả một vấn đề quan trọng
mang tính thường trực và cấp thiết. Chẳng riêng gì Phật Giáo, mà đến cả giới tu
hành của thiền tôn giáo, chẳng hạn Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Ấn
Giáo, thậm chí đến các tay phù thủy da đỏ Mỹ Châu cũng đều luôn đặt vấn đề cảnh
phòng đối với các trở lực nội tâm (theo cách hiểu của họ), nhưng nội dung của
chúng cũng gần giống với 5 thứ trở lực tinh thần trong Phật Giáo.
Sau đây là câu chuyện về
một nữ tu Thiên Chúa Giáo người Tây Phương sống tại Ấn Ðộ, đó là Sơ Teresa,
người đã từng được giải Nobel hòa bình vì những đóng góp xã hội to tát của bà.
Lần đó, sau khi tỏ lời kính phục đối với sự nghiệp vị tha của Sơ, một phóng
viên của đài BBC đã nói một câu ngụ ý rằng thực ra có lắm con đường để sơ có
thể vừa sống thoải mái mà vẫn có thể phụng sự tha nhân dễ dàng, can chi Sơ lại
chấp nhận một đời sống vật chất quá ư chật vật? Bởi rõ ràng là về tài sản vật
chất, Sơ Teresa coi như không có gì cả, trừ một chiếc xe, một ngân khoản bảo
hiểm... và dĩ nhiên là Sơ cũng không có chồng con.
Nghe nhắc đến vấn đề hôn
nhân, Sơ Teresa mỉm cười với người phóng viên :
- Bảo tôi độc thân là
sai, tôi vẫn đang có một cuộc hôn nhân đó chứ!
Nói rồi, Sơ giơ tay lên
cho anh phóng viên nhìn thấy chiếc nhẫn trên đó, thực ra đó là loại nhẫn mà các
nữ tu vẫn thường đeo với ý nghĩa là đã hiến mình trọn vẹn cho Chúa và Sơ lại
nói thêm: "Mà Ngài thì nhiều khi khó khăn lắm! "- ý Sơ Teresa muốn
nói đến những trở lực tinh thần mà mình đã phải đối diện trong cuộc đời làm một
nữ tu.
Càng lắng tâm nhìn ngắm
vào chính lòng mình, chúng ta sẽ càng có nhiều cơ hội để thấy rõ tất cả những
nguồn cội của ham muốn, sợ hãi, thương ghét, nói chung là các thành kiến tâm lý
mà từ đó đã gây ra biết bao nỗi khổ cho thế giới. Bản thân chúng là những ma
chướng, trở lực, nhưng đối với một người tu tập thiền định thì chúng là một vấn
đề tâm điểm để bằng vào một sự trực diện khách quan, chúng lại thành ra một
thực tại chiêm ngắm, đồng thời sự chiêm ngắm đó lại là một công phu tu tập. Sự
đối diện để khắc trừ cũng như ý hướng xử lý các trở lực tinh thần này thực ra
không phải chỉ là vấn đề của hôm nay, mà là tự ngàn xưa. Vào thế kỷ thứ 2 Tây
lịch, tu sĩ Evagrios, người vẫn được xem là một đại ẫn sỉ trên sa mạc, đã nhắc
nhở các môn đồ của mình về những trở lực tinh thần bằng cách dùng hình ảnh mô
tả chúng như những con ác quỷ luôn rình rập để quấy rầy những người tu hành nơi
hoang vắng. Những con ác quỷ đó chính là những nổi sợ hãi, lười biếng kiêu
ngạo...
Theo truyền thống Phật
Giáo, các trở lực tinh thần này được nhân cách hóa bằng các tên gọi Ác Ma, Ma
Vương mà bộ mặt của chúng chính là những hèn nhát nông nông nổi, bướng bỉnh,
thái độ vô tri, xuẩn động đối với thực tại.
Ác Ma (ở đây chỉ cho các
phiền não) thường xuất hiện để quấy rầy người tu tập qua nhiều hình thức: Chẳng
hạn một ước muốn nào đó về điều kiện sống vật chất hoặc những do dự, tiếc nuối
trong mỗi hoạt động của mình. Có một câu nói rất hay mà chúng ta nhắc lại ở đây
như một lời cảnh báo: "Phật nào, Ma nấy". Ở một nội tâm non yếu thì
các phiền não trở lực sẽ xuất hiện một cách thô thiển để ta có thể dễ dàng nhận
diện và khắc chế; còn đối với những hành giả càng có bản lĩnh nội tâm bao nhiêu
thì chúng cũng xuất hiện vi tế, kín đáo bấy nhiêu. Ðó là những tư tưởng nguy
hiểm nhưng ta khó mà nhận ra. Chẳng hạn như một tư tưởng tự mãn "Ta là một
đức hạnh! Ta không bị các phiền não nhiễu động!". Chúng kín đáo quá, thế
là chúng ta mắc bẫy! Ðể đối trừ những hình thức phiền não tế vi này, chúng ta
chỉ còn cách dốc sức cho một khả năng chuyên chú và tỉnh lặng thường trực, và
dĩ nhiên bằng một thái độ nhìn ngắm hết sức khách quan.
Ngày xưa, chính Ðức Phật
cũng đã đi qua con đường này trong những ngày tháng còn là một ẩn sĩ ngồi tĩnh
tọa dưới gốc bồ đề. Ngài đã tự hứa với lòng mình là sẽ không bao giờ đứng dậy
ra đi nếu chưa làm tròn được lý tưởng của một vị Chánh Ðẳng Giác. Ðể thấu đáo được
bản chất của những buồn vui trong đời mình cũng như để tìm được lối thoát tự do
cho bản thân, điều bắt buộc là chúng ta phải luôn đối diện với những phức loạn
phiền não vốn thường trực có mặt trong nội tâm của mình. Cứ xem cuộc tu là một
cuộc hành trình ngàn dặm mà ở đó chúng ta phải tự biết học cách giữ vững được
lòng mình và điều tất yếu là phải có được một bản lãnh tự tại của một kẻ xem
bốn biển là nhà. Sự chuyên tâm trong công phu thiền định không hề là một nổ lực
tự tạo ra một ảnh tượng lý tưởng nào đó, mà là một thái độ sống hết mình trong
từng phút giây hiện tại, phơi mở nội tâm, làm trung hòa các xung đột nội tại
xuyên qua những cảm nghiệm chu đáo về đời sống. Với chừng đó cố gắng, xem như
ta đã có đủ sức mạnh để đào luyện nội tâm, huy động nó một cáh hữu hiệu, đồng
thời cũng giúp nó ngày một kiên định, trong sáng và tự do hơn.
Chúng ta có thể
nói rằng khả năng trung hòa nội tâm luôn được thành tựu từ sự trực diện với mỗi
mỗi cảm nghiệm khách quan về thực tại. Ở một cấp độ rốt ráo nào đó, người hành
giả có bản lãnh này còn có thể vô hiệu hóa những ảnh hưởng của phiền não bằng
chính sự tu tập đúng mức của mình, mà nội dung của nó luôn là một tình thương
vị tha cùng niềm khát khao hướng đến một khả năng tỉnh thức thật sự. Suy cho
cùng, chỉ bằng một chút lòng thiện chí, ta có thể ta có thể học được lắm điều
kỳ diệu trong đời mình, kể cả một sinh phong tự tại, an bình giữa cuộc đời nước
mắt nhiều hơn nụ cười này. Nếu thiện chí đó vẫn nuôi dưỡng từng ngày thì những
trở lực tinh thần kia đói với chúng ta sẽ không còn là vấn đề nữa. Ðể rồi sau
cùng chúng ta còn thấy được một điều hết sức thú vị khác nữa rằng, tất cả những
điều tệ hại và khó khăn nhất đều luôn thay đổi chứ không phải cứ triền miên đày
đọa chúng ta như trước đây chúng ta vẫn nghĩ thế. Tất cả lúc này chỉ còn là
những cảm nghiệm giản đơn trong sáng, nhẹ nhàng và cũng phù du mà chúng ta có
thể an nhiên nhìn ngắm chúng trong mỗi giây khắc tư tưởng.
Những căn dặn trên đây
tuyệt đối không phải chỉ đơn giản mang tính học thuyết hay tín điều Thiêng liêng,
mà lại là một phép sống hết sức thực tế để chúng ta có thể nương theo đó mà cảm
nghiệm được một nếp đời tự tại, tự học được cách gắn bó với từng cảm nghiệm đó
của mình. Mà vấn đề này thì vô cùng quan trọng: Bằng chính thái độ xử lý của ta
đối với các trở lực tinh thần đó, một cuộc xung đột nội tại nghiêm trọng sẽ xảy
ra hoặc một thành quả thiền định chói ngời được thành tựu. Do vậy, bước đầu
tiên khởi mang tính cấp thiết cho công phu nội quán và trực diện này phải là sự
nỗ lực giàn xếp, trung hòa mọi động cơ xung đột nội tại một cách cụ thể. Nói
theo kinh điển truyền thống, các triền cái tức những trở lực nội tâm đã nhắc
tới trên đây, thường được kể có năm thứ, mặc dù trong thời gian tu tập thiền
định của mỗi người, con số đó đôi khi không có vẻ khít khao với thực tế. Bởi
thế, các đạo sỉ Du Già (Yoga) vẫn thích gọi tất cả các ma chướng tinh thần
trong thiền định bằng một cái tên chung và ngắn gọn là "Cuộc tấn công của
các trở lực phức loạn". Tuy thế, ở đây, tốt nhất là ta cứ lần lượt bàn về
chứng theo lối phân tích của kinh điển truyền thống.
Thiền học Nam Truyền
Giác Nguyên dịch Việt
Giác Nguyên dịch Việt