Vấn đề đầu tiên trong
tam học chính là thái độ sống hài hòa và vô hại đối với cuộc đời chung quanh.
Ðể phát triển công phu đào luyện nội tâm, điều tiên quyết là chúng ta phải tự
biết xây dựng một căn bản đạo đức trong đời sống chính mình, bởi một khi chúng
ta có một hành động lớn nhỏ nào đó có thể phương hại đến mình và người khác,
chẳng hạn như những đau buồn hay một xung đột mâu thuẩn, thì chắc chắn rằng
điều đó sẽ là một trở lực nghiêm trọng cho thiền định, con đường trung hòa nội
tâm cho ngày một tỉnh lặng hơn, đồng thời nó cũng là cánh cửa ác hại khép kín
tất cả những giá trị tinh thần khác. Còn đối với Ðịnh học và Tuệ học thì lý
tưởng cao nhất của chúng, y cứ trên nền tảng những giá trị được kế thừa từ Giới
học, thành quả đó mới có thể dễ dàng có được.
Ðức Phật ban hành Ngũ
giới cho người Phật tử là nhằm để hướng dẫn cho chúng ta một đời sống có ý
thức. Sự chấp trì của ngũ giới là một động cơ tích cực cho con đường tu tập
thiền quán. Ngũ giới tuy vậy không phải là những tín điều cưỡng bức vô lối, mà
mọi sự ở đây đều phải xuất phát từ một tự nguyện. Hơn thế nữa, ta phải hiểu
thêm rằng chúng là những hướng dẫn hữu hiệu có thể giúp ta một nếp sống hài
hòa, đồng thời phát triển và nâng cao sự an lành cũng như những sức mạnh khác
của nội tâm. Có sống trong tinh thần giới luật, chúng ta mới có dịp thấy rằng
chúng là những luật sống tuyệt với có giá trị đối với mọi nền văn hóa cùng tất
cả thời đại. Ngoài ý nghĩa là cơ sở cho công phu thiền quán, giới luật còn có
thể giúp ta làm thăng hoa đời sống nội tâm đa dạng của mình.
Học giới đầu tiên trong
ngũ giới là cấm sát. Học giới này đòi hỏi chúng ở ta một tấm lòng
hiếu sinh để từ đó, dầu có phải chịu đựng một ác cảm hay thành kiến bất mãn nào
đó, ta cũng không được quyền cướp đi sự sống của bất kỳ sinh vật lớn nhỏ nào.
Ðại khái chúng ta phải luôn biết tôn trọng sự sinh tồn của tất cả chúng sinh
dưới mọi hình thức. Nói theo giáo lý Bát Chánh Ðạo thì làm vậy là ta đã thực
hiện được một phần Chánh nghiệp. Chúng ta luôn có nhiều lý do để tự cho phép
mình sát sanh, thậm chí kể cả trường hợp để thể thao hoặc tiêu khiển. Một khi
biết tự tạo mối đồng cảm, giao tình sâu sắc với đời sống thì tự nhiên chúng ta
sẽ không còn những hứng thú trong việc giết chóc nữa, một cách sinh hoạt chỉ
xuất phát từ ác ý. Không một sinh vật nào lại muốn tìm đến cái chết cả, nên học
giới đầu tiên trong ngũ giới là khuyên ta đừng bao giờ sát sinh.
Học giới thứ hai chính
là sự lương thiện. Không làm điều trộm cướp, tức không bằng một
hình thức nào đó lấy đi một vật lớn nhỏ của người khác. Không trộm cướp cũng là
một thái độ sống vô hại đối với người khác. Chúng ta cần giải trừ lòng tham và
sự ôm giữ quá đáng. Nói vậy còn có nghĩa là chỉ nên biết tự thích nghi với một
điều kiện vật chất mang tính nhu cầu thật sự mà thôi, đồng thời nên có một thái
độ san sẻ với tha nhân quanh mình. Trong đời sống thường nhật, chúng ta phải
cần thiết nhiều thứ lắm: cây cỏ, súc vật thậm chí đến côn trùng. Và toàn bộ thế
giới này luôn tự tồn tại với những vận động bù trừ như là một giải pháp sinh
tồn.
Ðại để, thế giới như một
con tàu với nhiều sinh vật sống còn trên đó. Từ con ong, cái kiến, chú giun đất
đều luôn có ảnh hưởng và giá trị quan trọng sự sống của mỗi người. Sự sinh tồn
của chúng ta nói cho cùng, chỉ là một hình thức tồn tại vay mượn và nhờ cậy.
Nếu chúng ta học được cách trân quý, gắn bó với thế giới, tự khắc ta sẽ có được
một đời sống hạnh phúc. Ðây cũng chính là vấn đề sinh thái của địa cầu. Ðồng
thời cái gọi là động cơ xây dựng hòa bình thế giới còn là những sinh hoạt có ý
nghĩa chăm sóc, hài hòa đối với vấn đề môi sinh bằng tinh thần thiền định:
không bỏ mặt nó mà vẫn quan tâm giao lưu với những cái khác.
Từ sinh phong tuyệt vời
này, cuộc đời chúng ta sẽ thoải mái và hữu dụng hơn. Sự phát triển tâm hồn hào
sảng nhân hậu cũng là một phần quan trọng của đời sống nội tâm. Như vậy chúng
ta nên cùng lúc chấp trì các học giới, tu tập thiền định và nuôi dưỡng một tâm
hồn rộng rãi để nhờ đó trái tim ta ngày một rộng mở thêm, hùng hậu mà cũng nhẹ
nhàng thêm và niềm an lạc trong cuộc tu cũng theo đó mà được nhân lên. Ðức Phật
đã nhấn mạnh tầm quan trọng của bàn tay bố thí hào phóng qua một lời dạy hết
sức sâu sắc và thú vị: "Nếu các ngươi biết rằng ta đã thấu suốt giá trị
của hành động bố thí như thế nào thì chắc chắn các ngươi sẽ không vất bỏ vô ích
một hạt cơm nào cả".
Theo kinh điển truyền
thống, có đến ba trường hợp bố thí. Chúng ta phải có can đảm đón nhận bất cứ cơ
hội bố thí nào đó, gặp dịp là thực hiện ngay. Bởi đôi khi, thậm chí thường
xuyên, chúng ta vẫn có thói quen do dự ít nhiều trước khi đem cho thứ gì đó đến
người khác. Nhưng dù sao bố thí với tâm thái nào cũng là tốt cả, bởi đó là lối
sống san sẻ và vị tha. Vừa rồi là một trường hợp bố thí: bố thí trong phân vân,
do dự.
Trường hợp bố thí thứ
hai: lối bố thí mang tinh thần bè bạn. Ðó là một thái độ sẳn sàng dành ra một
thời gian, một công sức hay một vật chất nào đó cho người khác như một món quà
tương giao. Lối bố thí này cũng là một thái độ sống thú vị. Bởi thực ra chúng
ta đâu phải cần đến quá nhiều những sở hữu mà mình vẫn ngỡ là sẽ mang lại hạnh
phúc. Vì chính nhân cách và thái độ tương giao đối với cuộc đời mới là cái quy
định những buồn vui của chúng và hãy luôn nhớ rằng hạnh phúc hay niềm vui nội
tại chỉ đi ra từ một tấm lòng.
Trường hợp bố thí thứ ba
là hình thức bố thí bằng một sự trân trọng: trao tặng cho người những gì mà
mình cũng trân quý, kể cả một thời giờ hay một công sức nào đó khó dành ra. Có
lẽ ai cũng thấy rằng trường hợp bố thí này là cả một điều khó khăn nhưng vô
cùng quý giá mà mình phải cố gắng thực hiện.
Ðể việc bố thí hay những
nghĩa cử hào sảng nào đó của chúng ta có được cái giá trị tích cực cho nội tâm
thì mỗi người nên hiểu rằng thái độ hy sinh đó của mình hoàn toàn không có ý
nghĩa tô điểm, vun bồi một sự hãnh diện cho cái Tôi nào cả, nó phải có được lý
tưởng là nhân cách và sức mạnh nội tâm cũng như một nguồn tịnh lạc thật sự.
Ðiều cần nói thêm ở đây là dĩ nhiên chúng ta không nhất thiết phải tuôn hết tất
cả cho lòng hào sảng: ta còn có đời sống riêng tư nên tất nhiên cũng phải biết
nghĩ tới mình. Ðừng quên rằng trong mọi trường hợp một sự thái quá hay bất cập
đều không nên có. Lời cuối cùng là chúng ta vẫn phải đặc biệt quan tâm đến một
tâm hồn khoáng đạt, phơi mở bởi chính nó vẫn dạy chúng ta bài học về tình
thương.
Học giới thứ ba là tránh
những hình thức quan hệ tình dục bất hợp pháp, một hành động có thể phương
hại đến người khác. Học giới này đề nghị ở chúng ta một nếp sinh hoạt sinh lý
khả dĩ thích đáng và nghiêm túc. Chúng ta phải nhận rằng nhu cầu và hấp lực
tình dục đối với phần đông đều luôn mãnh liệt. Ðặc biệt trong thời đại gần như
tự do tình dục của hôm nay, chúng ta càng phải luôn thận trọng và biết tự chế.
Chỉ cần một nếp sinh hoạt tình dục bừa bãi thì ta rất dễ dàng gây ra biết bao
phiền phức cho mình và người khác, chẳng hạn đối với trường hợp ngoại tình. Một
đời sống bình yên và hạnh phúc lại bị đánh đổi bằng chút khoái cảm phù du mà
cũng nguy hiểm đó xem ra quá rẻ và thật đáng tiếc.
Ðiểm tinh thần của học
giới này là sự phản tỉnh tự thân về những động lực tâm lý đàng sau các sinh
hoạt của mình. Con đường đó sẽ cho phép ta thấy được ảnh hưởng liên đới của dục
tính với nội tâm bản thân, cũng như cả những giá trị tích cực của nó trong đời
sống thường nhật: Chẳng hạn nó có vai trò và ý nghĩa gì trong tình yêu cùng
những tình cảm khác. Ðại khái ta sẽ có được một bài học thú vị, bổ ích về vấn
đề quan hệ tính giao, tình yêu đôi lứa và thái độ sống cũng như các hiểu về
chúng. Trong khi hầu hết chúng ta thường có những phút giây điên dại trong tình
dục, xem đó là một cách thưởng thức cái đẹp hoặc để thỏa mãn thú tính của mình
bằng một ý thức chiếm hữu. Tự chế được hấp lực của tình dục bản thân cũng là
một phần quan trọng trong đời sống tu tập.
Học giới thứ tư trong
ngũ giới là tránh không nói dối, một chi phần của Chánh ngữ trong
giáo lý Bát Chánh Ðạo. Chúng ta đừng bao giờ nói dối, thay vào đó là những lời
chân thật và hữ ích, những câu nói chỉ xuất phát từ trí tuệ và tinh thần trách
nhiệm. Pháp môn Chánh ngữ đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề quan trọng là đòi
hỏi chúng ta tự biết vận dụng ngữ ngôn của mình một cách tốt đẹp bằng sự tỉnh
thức trước khi phát biểu. Chúng ta đã mất quá nhiều thời gian trong cuộc đời
ngắn ngủi của mình cho những cuộc phiếm luận vô ích, mà thường thì ta ít khi
chịu tỉnh táo, bình tỉnh để biết mình đang nói gì. Chúng ta có thể tu tập trong
từng câu nói, từng giây phút phát biểu, bằng cách ý thức rõ ràng về những gì
đang xảy ra, từ não trạng đến những cảm xúc tâm lý. Rồi khi im lặng, ta cũng
vẫn tiếp tục giữ chánh niệm để nghe người khác nói. Chúng ta có thể tự tạo
những quy tắc ngôn ngữ cho mình với những tiêu chuẩn chân thật và hữu ích. Có
tu tập thiền định ta mới có thể khám phá nhiều điều kỳ thú về ngữ ngôn.
Người ta kể lại rằng,
tại địa phương kia có một danh y nỗi tiếng về khả năng trị bệnh cho trẻ con và
điều đặc biệt là thay vì sử dụng các thứ thuốc men, ông chỉ luôn trị liệu bằng
vài câu nguyện ngắn. Lần đó, trong số những người đến xem ông chữa bệnh có một
gã thanh niên ngỗ ngáo tỏ vẻ nghi ngờ khả năng của vị danh y bằng vài câu nói
vô lễ. Vị danh y quay nhìn anh ta rồi buông gọn một câu:
- Mi chỉ là một thằng
ngu biết gì mà nói!
Gã thanh niên dĩ nhiên
nổi nóng và sắp sửa có phản ứng với vị danh y nhưng cũng ngay lúc ấy vị danh y điềm
đạm mĩm cười với anh ta:
- Nếu có một câu nói đủ
khiến người ta bị bất ổn về tâm sinh lý thì tại sao lại không có được một câu
nói nào đó có thể giúp người ta ổn định tâm sinh lý chứ!
Mỗi câu nói của chúng ta
luôn có một giá trị nhất định nào đó, tiêu cực hay tích cực: Một lời nói có thể
đủ sức gây ra những đổ vở mà cũng có thể hàn gắn những chia rẻ rạn nứt. Do đó,
chúng ta phải luôn thận trọng và biết chân thành mỗi khi phát ngôn. Chúng ta
luôn được tín nhiệm khi chỉ nói thật. Ðiều đòi hỏi là một công phu tự tỉnh
thường trực và nhờ vậy, nội tâm của chúng ta cũng ngày một yên tỉnh, rộng mở và
an hoà hơn.
Học giới cuối cùng trong
ngũ giới là kiêng hẳn tất cả các thức uống có tác dụng gây say. Sở
dĩ phải như vậy vì những thức uống đó chỉ có tác dụng hủy hại tâm sinh lý của
chúng ta, đồng thời làm tiêu tán mọi khả năng tỉnh thức, sáng suốt của tâm hồn.
Nói một cách nôm na, chúng ta, trong từng phút giây, chỉ sống bằng một cái tâm
(luôn biến đổi) nên ta phải biết trân trọng bảo trì nó. Trên thế giới hôm nay,
có đến hàng trăm triệu người nghiện rượu và một lượng người đáng kể khác lại
liên tục lạm dụng các loại thuốc kích thích dưới nhiều hình thức và mục đích.
Chính những cơn nghiện tai hại đó đã cùng lúc đem lại biết bao phiền phức cho
người khác. Ở đây ta phải nhận rằng, một đời sống tinh thần có tự chủ quả là
không dễ dàng tí nào. Bởi để thực hiện được một đời sống nội tâm như vậy, ta
phải liên tục đối đầu với biết bao giằng xé, vật vã. Sự nghiện ngập, từ đó, dĩ
nhiên không thể chấp nhận được.
Ðể có thể hội nhập một
cách hữu ích và tích cực với xã hội, đồng thời thiết lập một nền tảng cho đời
sống tâm linh chính mình, vấn đề đòi hỏi ở chúng ta một sự tỉnh thức và tinh
thần trách nhiệm đối với từng quan hệ trong thế giới chung quanh cũng như mỗi
mỗi sinh hoạt, hành động của riêng bản thân. Sinh phong đó chắc chắn là một giá
trị nhân cách mang ý nghĩa tương giao tuyệt với với cuộc đời mà cũng là nhân tố
cho một nội tâm có bản lĩnh. Một căn bản đạo hạnh luôn mang lại cho chúng ta
tất cả an lành và tự do, bên cạnh đó, còn là một điều kiện tiên quyết, cần
thiết cho thiền quán. Với chừng đó công phu, coi như ta đã có được một đời sống
đầy ý thức để không lãng phí cái kiếp người vốn khó được, cũng như không tự đnh
mất cơ hội vun bồi lòng từ bi cùng trí tuệ như thật về cuộc đời, những giá trị
cao vời chỉ có ở những người thật sự diễm phúc.