Ðối tượng của công phu
hay lý tưởng này trong thiền định cũng vẫn là thực tại và sự cảm nghiệm
về nó. Ðó là sự thật vẫn bị chôn vùi, giấu kín từ bấy lâu nay qua hình thức ngụy
trang của các khái niệm tập quán. Chúng ta luôn có khuynh hướng đánh rơi thực
tại vào hố thẳm nguy hiểm này, và một trong những tâm điểm của thiền định là
giúp ta thắng được nó để có thể trực tiếp đối diện thực tại. Giữa thực tại và
cái khái niệm tập quán luôn là một vùng tối. Có ai đó đưa tay lên rồi hỏi ta
"Ðây là cái gì?" thì thường khi câu trả lời của ta sẽ bật ra theo
thói quen rằng "Ðó là bàn tay" dù chưa thật sự nhìn kỹ bàn tay đó ra
sao, có cần nắm gì hay không. Chúng ta gọi đó là bàn tay và cứ vậy cái khái
niệm tập quán lại tiếp tục được nuôi dưỡng.
Nghe một tiếng còi ré
lên ngoài đường, ta chỉ đơn giản hình như tuân theo một quán tính tâm lý đã có
sẳn để qui định đó là tiếng còi của loại xe nào. Nhưng đó có phải là cái mà ta
thực sự nghe được hay không? Chỉ có âm thanh thôi, thưa bạn, đừng gán ghép thêm
vào nó một ý niệm định trị, định danh, định hướng, định hình phân biệt và giả
lập nào hết. Ðừng đánh tráo sự cảm nghiệm trực tiếp và đơn giản đối với bản
chất thực tại bằng một khái niệm tập quán. Chẳng hạn sau một giờ tọa thiền,
lưng và gối của bạn bị đau nhức. Bạn có thể lập tức ghi nhận rằng "Lưng
hay gối của tôi bị đau nhức" nhưng cái thực tại mà bạn cảm nghiệm được thì
chỉ có cái đau nhức, cảm giác bất an, bất ổn của sinh lý thôi - còn "lưng,
gối, tôi, của tôi" kia là các khái niệm tập quán không cần thiết, thậm chí
nguy hiểm. Bởi thật ra đâu có cái gì trong thực tại là lưng, gối, cơ bắp...
Tại sao nãy giờ tôi đã
nhấn mạnh vấn đề này đến thế? Bởi vì nó rất quan trọng, sự khu biệt tinh xác
được cái cảm nghiệm thật sự với cái khái niệm tập quán sẽ cho ta biết được
hướng đi của thiền định. Những định danh của chúng ta về mọi vật luôn giống
nhau ở điểm là không có giấu hiệu thay đổi, bởi có thể cả đời mình chúng ta vẫn
cứ gọi một sự vật nào đó bằng một hay vài cái tên gọi nhất định. Chính sự gắn
bó mật thiết giữa các khái niệm tập quán đối với mọi sự vật qua lối định danh
đó sẽ không những gieo mầm kín đáo cho một vọng tưởng về cái trường tồn (không
vô thường) mà còn có nguy cơ đưa tới một cái Ngã, ngã sở (Tôi, của tôi) nữa. Và
từ đó cái đau đớn hay khoái cảm sẽ không còn được cảm nghiệm trực tiếp và trung
thực nữa, nó sẽ kết bè với một chuỗi ảo tưởng của khái niệm tập quán:
"Lưng tôi bị đau; tôi nghe khoan khoái cả người..."!
Trong khi đó, nếu bằng
một sự ghi nhận như thật ta sẽ thấy mọi thứ đổi thay một cách nhất định trong
thực tại mà ta cảm nghiệm được. Không có cái gì giữ nguyên được bản chất vận
động của mình trong hai giây đồng hồ cả. Do đó còn bám chắc khái niệm tập quán
thì coi như ta vẫn bị lún sâu trong thế giới ảo tưởng. Thiền định dạy ta tìm ra
những gì bị giấu kín. Mọi thực tại phải được tri nhận trực tiếp thay vì theo
thói quen, ta luôn đồng nhất với cái tôi thông qua một khái niệm tập quán về
hình thức ngoại tại của nó.
Trước hết, thiền định
khuyên ta hãy nhìn mọi sự và vạn vật là luôn thay đổi. Tất cả đều trôi đi trên
một dòng chảy liên tục. Hiểu được đặc tính vô thường của vạn vật theo kiến thức
học hỏi cũng là đáng quí nhưng đó vẫn chưa là thứ trí tuệ sâu sắc bởi trí tuệ
đó chỉ mới từ bên ngoài đưa vào. Thiền định là một quá trình phơi mở bản chất
vô thường của vạn vật và nâng cao trí tuệ cho ngày một sâu sắc hơn. Tất cả mọi
hình danh, sắc tướng thuộc tâm vật lý thực ra chỉ là từng đơn tử trong một thấy
được đặc tính vô thường trong mỗi thực tại cũng có nghĩa là ta đã thấu thị được
bản chất bất toàn trong mọi hiện tượng để từ đó chấm dứt các ảo giác mỹ cảm về
chúng.
Sự bất toàn ở đây còn chỉ cho những đau khổ tâm sinh lý cho nên cộng
thêm trí tuệ về sự vô thường, ta sẽ nhận ra được cả cái cốt lõi trong sự giác
ngộ của Ðức Phật là trí tuệ về lý vô ngã: không có một cái tôi hay chủ
thể, chủ quyền nào hằng tạo trong qui trình vận động liên tục của các pháp.
Ðến đây thì ta đã tự thăng hoa cuộc tu thiền định của mình bằng một bước đi tự
khái niệm tập quán sang trí tuệ thực nghiệm. Ta đã bỏ lại toàn bộ những ảo
tưởng ngã chấp và tham đắm mù quáng trong các thực tại để sống tỉnh thức với
chính thực tại mà mình vẫn cảm nghiệm trong mỗi phút giây hiện tại với một thái
độ bất cầu, vô chấp.